Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không đề cập đến
vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
do đó nó không có giá trị pháp lý đối với hai quần đảo này.
Trường Sa. Ảnh: Trường Phong
Ngày 23/5, tại cuộc họp báo quốc tế do Bộ Ngoại giao
tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam một lần nữa tái khẳng định Trung Quốc đã
viện dẫn sai lệch bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi phía Trung
Quốc ngày 14/9/1958. Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không
đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa do đó nó không có giá trị pháp lý đối với hai quần đảo này.
Hoàn cảnh và ý nghĩa thực tế của bức thư
Trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh và thế giới phân chia
thành hai phe: Tư bản chủ nghĩa (TBCN) và xã hội chủ nghĩa (XHCN), xảy
ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan (Đài Loan lúc đó còn giữ hai đảo
nằm giáp lục địa Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ), hải quân Mỹ đến vùng
eo biển Đài Loan, khiến Trung Quốc lo sợ rằng Mỹ có thể tấn công xâm
phạm chủ quyền của Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa ra Tuyên bố về lãnh hải ngày 4/9/1958 với nội dung như sau:
(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo
ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi
biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần
đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc
Trung Quốc.
(2) (3) ...
(4) Ðài Loan và Bành Hồ hiện còn bị Mỹ cưỡng chiếm. Ðây là hành
động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy
lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào
các vấn đề nội bộ của Trung Quốc”.
Đáp lại tuyên bố này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức thư ngày 14/9/1958 cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau: “Thưa
đồng chí Tổng lý. Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý
rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt
biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.
Tại sao lại có bức thư này và với nội dung như trên? Hoàn cảnh ra đời
và giá trị pháp lý của nó là gì? Để đánh giá một cách khách quan giá
trị của bức thư này, chúng ta cần xem xét bối cảnh ra đời cũng như nội
dung chính của văn bản này, và cần đặt nó dưới ánh sáng của luật pháp
quốc tế.
PGS.TS Nguyễn Bá Diến
Thứ nhất, về khía cạnh chính trị - ngoại giao, chúng
ta cần xét đến bối cảnh thực tế của quan hệ quốc tế và quan hệ Việt -
Trung tại thời điểm năm 1958 để hiểu cặn kẽ vì sao Thủ tướng Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa lại có văn bản này - trong bối cảnh của thời kỳ Chiến
tranh lạnh với sự va đập và đối kháng giữa hai lực lượng, hai hệ tư
tưởng: phe TBCN (trung tâm là Mỹ) và phe XHCN (Liên Xô, Trung Quốc). Sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, những phần tử diều hâu trong giới quân sự Mỹ
vẫn chống Trung Quốc và đưa hạm đội vào hoạt động trong eo biển Đài
Loan, đe dọa Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc cũng đã trở thành đối tượng
của chiến lược bành trướng của Mỹ ở châu Á nhất là từ khi quân Trung
Quốc pháo kích liên tục Kim Môn và Mã Tổ. Theo một tài liệu của Bộ Quốc
phòng Mỹ, trong “kế hoạch hành động đối với Việt Nam” đề ngày 24/5/1965,
Mc Naughton đã lên danh sách mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến tranh
Việt Nam mà một trong bốn mục tiêu đó là “để bảo vệ Nam Việt Nam và vùng
lân cận khỏi tay Trung Quốc”.
Đúng
như luật gia Lưu Văn Lợi, cựu Chánh văn phòng - Trợ lý Bộ trưởng Ngoại
giao, Trưởng ban Biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989) - đã
nhận định: “Nếu ai cho đó là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối
với quần đảo Tây Sa và Nam Sa thì là đi quá nội dung và mục đích của bức
thư, đồng thời phủ nhận tình cảm thiêng liêng trong lòng người Việt
Nam, người Trung Quốc lúc bấy giờ”.
|
Vào thời điểm đó, Việt Nam đã trở thành lực lượng xung kích của phe
XHCN trong tuyến đầu chống lại Mỹ và trở thành đồng minh chiến lược của
Trung Quốc, “vừa là đồng chí vừa là anh em”, “anh em một nhà” (Trung -
Việt nhất gia). Thật không sai khi có quan điểm cho rằng, quan hệ giữa
hai nước Việt-Trung lúc bấy giờ mật thiết “như môi với răng”. Hơn nữa,
lúc bấy giờ Hội nghị Giơ-ne-vơ của Liên Hợp Quốc về Luật Biển đã ban
hành bốn Công ước, trong đó có Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp
năm 1958. Trung Quốc muốn thể hiện vị thế nhất định của mình trên trường
quốc tế nên đã ban hành Tuyên bố ngày 4/9/1958 về lãnh hải.
Do vậy, bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chắc chắn không định đề
cập vấn đề pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, càng không có ý định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo này, mà chỉ nhằm một điều duy nhất, đó là: Thể hiện sự ủng
hộ đối với việc quy định lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc nhằm cản tay
Mỹ.
Phải đứng trên tinh thần đó và bối cảnh những năm 50-60 của thế kỷ
trước (quan hệ Việt- Trung; quan hệ Trung-Mỹ cũng như tình hình khu vực
và quan hệ quốc tế...) để hiểu bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không
phải là sự tuyên bố của VNDCCH từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa mà chỉ phản ánh một sự thật trong giai đoạn tốt đẹp của
tình hữu nghị Việt - Trung; phản ánh tình cảm hữu nghị, tình đoàn kết
của nhân dân Việt Nam đối với Trung Quốc trước mối đe dọa của Mỹ vào
thời điểm lịch sử đó mà thôi.
Việt Nam không vi phạm các điều kiện của nguyên tắc estoppel
Về mặt pháp lý, có học giả đã lấy thuyết estoppel để khẳng định bức
thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là có sự ràng buộc đối với Việt Nam và
Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.
Vậy thuyết estoppel là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau về estoppel.
Tuy nhiên, hiểu một cách chung nhất, thì estoppel là một học
thuyết/nguyên tắc/tập quán, mà theo đó, một quốc gia phải nhất quán
trong ứng xử và không được bác bỏ một thực tế đã được chính quốc gia này
thừa nhận trước đó. Mục tiêu chính của thuyết này là không cho phép một
quốc gia được hưởng lợi hoặc gây thiệt hại cho một quốc gia khác thông
qua cách ứng xử không nhất quán của mình.
Theo phán quyết của Tòa công lý quốc tế giải quyết tranh chấp giữa
Mỹ và Nicaragua trong vụ “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại
Nicaragua”, thì: “Estoppel có thể được suy diễn từ một thái độ, những
lời tuyên bố của một quốc gia nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái
độ hoặc lời tuyên bố không những phải được thực hiện một cách rõ ràng
và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào
đó mà thay đổi hoạt động và phải chịu thiệt hại”. Các luật gia đều cho
rằng, ngầm công nhận trong một tình huống nhất định sẽ dẫn đến estoppel.
Nếu quốc gia đã biết rõ về một sự việc cụ thể song vẫn giữ im lặng thì
việc im lặng đó phải được giải thích là sự đồng ý, chấp nhận và sẽ không
đưa đòi hỏi ngược lại.
Các luật gia quốc tế cũng khá thống nhất trong quan điểm gắn việc
ngầm công nhận với estoppel khi giải quyết tranh chấp lãnh thổ và cho
rằng trong tranh chấp lãnh thổ, việc ngầm công nhận sẽ đồng nghĩa với
estoppel nếu: (i) Các bên tranh chấp lãnh thổ đều đưa ra các yêu sách
trái ngược nhau; (ii) Các bên đều biết rõ các yêu sách của nhau; (iii)
Một bên giữ im lặng hoặc không có ý kiến hay hành động gì trước yêu sách
của đối phương và như vậy bị mất đi quyền của mình.
Như vậy, theo thuyết estoppel thì phải hội đủ 4 điều kiện: (1) thái
độ, lời tuyên bố của một quốc gia nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó;
(2) thái độ, lời tuyên bố đó phải được thể hiện rõ ràng; (3) thái độ,
lời tuyên bố đó phải được thể hiện liên tục; (4) khiến cho một hoặc
nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động hoặc phải chịu
thiệt hại.
Áp dụng những nội dung trên của nguyên tắc estoppel vào
bức thư của Thủ tướng VNDCCH cho thấy nó thiếu tất cả các điều kiện nêu
trên.
Theo điều kiện thứ nhất của estoppel, bức thư của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không phải là tuyên bố của Việt Nam về từ bỏ chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì các lẽ:
Một là, căn cứ Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 (được các nước Anh, Pháp,
Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc bảo trợ) trong đó có các điều khoản về chấm dứt
chiến tranh và lập lại hòa bình tại Đông Dương, đồng thời công nhận độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Tuy
nhiên, theo Hiệp định này, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền (chứ không phải là chia thành hai quốc gia độc lập- như một số người gần đây nhầm lẫn),
lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời, Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa quản lý miền Bắc, còn miền Nam Việt Nam do Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa (VNCH-Nam Việt Nam) tiếp quản kể cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Như vậy, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
không quản lý những đảo này và không có thẩm quyền để quyết định về vấn
đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa lúc bấy giờ. Lúc
đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hòa; mà các
chính phủ Việt Nam Cộng hòa luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ quyền này
cả…
(Còn nữa)
PGS.TS Nguyễn Bá Diến - Chủ nhiệm Bộ môn Luật
Quốc tế, Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Luật Biển
và Hàng hải Quốc tế, Chủ tịch Hội đồng Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và
Hải đảo.
Theo PGS.TS Nguyễn Bá Diến