Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014
Hà Nội và những địa danh lịch sử
Tết Độc lập, nước mắt hoá thành đá ở chiến trường năm 1969
Tết Độc lập, khẩu phần ăn được tăng thêm 50gr gạo. Tết Độc lập chìm trong lo âu và buồn lặng bởi tin Bác Hồ ốm nặng khó lòng qua khỏi. Tết Độc lập đầu tiên trong niềm vui thống nhất non sông… là những kỷ niệm không thể nào quên trong đời người lính.
Những ngày đầu tháng 9 nắng Thu ươm vàng cả đất trời. Khắp các ngả đường, con phố cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trong làn gió nhẹ. Những cơn mưa rào chuyển mùa thoắt đến, sầm sập rồi trời bỗng lại tạnh ráo. Trời như trong xanh hơn, nắng như vàng hơn và lòng người cũng phơi phới hơn trong niềm vui ngày Tết Độc lập.
Cũng ngày này, 69 năm trước, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 69 năm đã trôi qua, đất nước đã đi từ trong khói lửa chiến tranh để đến ngày hòa bình, non sông thống nhất. Vượt qua những đau thương, đổ nát, lớp lớp các thế hệ Việt Nam đã chung tay xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ kính yêu từng mong đợi.
Đại tá Nguyễn Văn Thực - Nguyên Trưởng phòng bảo vệ an ninh Quân khu 4.
69 năm - 69 cái Tết Độc lập đã qua. Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu
quả của nó vẫn còn dai dẳng chưa thể nào hàn gắn hết. Hơn ai hết, những
người cựu chiến binh thấm thía về cái giá của Độc lập, của Tự do. Bởi
vậy, những cái Tết Độc lập giữa chiến trường khốc liệt luôn là ký ức
không thể phai mờ.Trong ngôi nhà khang trang ở phường Hưng Phúc (TP Vinh, Nghệ An), lần giở những bức ảnh chụp ở chiến trường, đại tá Nguyễn Văn Thực - Nguyên Trưởng phòng bảo vệ an ninh Quân khu 4 - hồi tưởng về những cái Tết Độc lập trên chiến trường. Nhập ngũ năm 1966, tính đến ngày Giải phóng miền Nam, non sông thu về một mối, chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Thực đã có 9 cái Tết Độc lập ở chiến trường. Mỗi cái Tết là một dấu ấn, một ký ức khó phai mờ trong cuộc đời binh nghiệp của ông.
Ngày Tết độc lập luôn là dịp các mặt trận thi đua lập thành tích giết giặc, giành đất, giành dân. Trong khi đó, Ngụy cũng tăng cường mở rộng mức độ đánh phá để lập công mừng Quốc khánh của họ (21/9). Bởi vậy, những ngày này cuộc chiến giữa hai bên hết sức ác liệt.
Đại
tá Thực kể về Tết Độc lập năm 1968 tại chiến trường Quảng Trị. Khi đó,
khẩu phần ăn của mỗi người lính được tăng thêm 50g gạo nhân ngày lễ đặc
biệt này.
Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến trường Quảng Trị càng trở nên ác
liệt hơn. Đây là ranh giới giữa 2 miền, 2 chế độ, bởi vậy, mỗi ngày trôi
qua là một cuộc chiến sinh tử giữa lực lượng 2 bên. Sau chiến dịch Mậu
Thân, địch tập trung quân với hỏa lực mạnh, quyết đánh bật quân giải
phóng về phía bắc cầu Hiền Lương. Với tổn thất không nhỏ sau chiến dịch
cộng với sự vây ráp của địch khiến việc tiếp tế lương thực, thực phẩm và
đạn dược phục vụ chiến trường hết sức khó khăn. Khẩu phần ăn của lính
phải giảm xuống hơn một nửa, trong khi đó nhiệm vụ lại nặng nề hơn rất
nhiều.“Lúc này, khẩu phần ăn của lính chúng tôi chỉ còn 3 lạng gạo mỗi ngày thay vì 7 lạng như trước đây. Cơm chia nắm, ăn với rau rừng, củ mài, củ nâu khoai hay sắn, nói chung là bất cứ thứ gì có thể cải thiện được. Đói. Đói quay quắt. Chiến sự ngày càng ác liệt. Nếu không có lòng tin vào Đảng, vào thằng lợi của chính nghĩa có lẽ chúng tôi đã không vượt qua được thời điểm đó. Tết Độc lập, đồng chí chỉ huy trưởng mặt trận quyết định tăng thêm 50gr gạo trong khẩu phần ăn của lính. 50gr tuy rất nhỏ nhưng đã tiếp thêm động lực cho chúng tôi rất nhiều”, đại tá Nguyễn Văn Thực nhớ lại.
Tết Độc lập phấp phỏng đau thương
Tết Độc lập giữa chiến trường là cái Tết của niềm tin tất thắng vào cuộc chiến đấu chống xâm lược. Bởi vậy, nó có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần. Giữa chiến trường đạn bom, giữa lằn ranh giới sống và chết thì niềm tin luôn là thứ vũ khí hữu dụng nhất. Và dịp Quốc khánh 2/9/1969 thực sự là một cuộc chiến đấu của lòng tin nơi “cối xay thịt” này.
Ngày 28/8/1969, Bộ tư lệnh mặt trận nhận được thông báo của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương. Bức điện chỉ vẻn vẹn mấy dòng: Bác ốm nặng, chắc khó qua khỏi. Đồng thời giao nhiệm vụ cho cán bộ an ninh mặt trận chuẩn bị công tác tư tưởng trấn an nhân dân, binh sỹ trong trường hợp Bác Hồ qua đời.
Chiến dịch Mậu Thân kết thúc mà không giành được thắng lợi đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân vùng tạm chiếm. Nếu Bác Hồ qua đời sẽ là một tổn thất cực kỳ lớn đối quân và dân ta. Không những thế, nó còn ảnh hưởng cực kỳ lớn đến tâm lý chiến đấu và niềm tin vào cuộc chiến đấu của toàn dân.
“Thông tin mật chuyển về, chỉ có anh em ở Bộ Tư lệnh mặt trận biết thôi. Không nói ra nhưng ai cũng nặng trĩu lo âu. Phần vì lo cho sức khỏe của Bác, phần vì lường trước được những khó khăn nếu điều không mong muốn đó xảy ra. Chúng tôi một mặt chuẩn bị cho anh em đón Tết Độc lập, một mặt cử cán bộ đến từng đơn vị, từng ấp chiến lược, từng vùng địch tạm chiến, vùng địch hậu để làm công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân" - ông Thực kể.
"Bác đã cao tuổi, sẽ không tránh được quy luật sinh - lão - bệnh - tử nhưng chúng ta còn Đảng. Đảng sẽ tiếp nối con đường đấu tranh giải phóng dân tộc mà Bác đã vạch ra. Đảng sẽ thay mặt Bác lãnh đạo cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Chúng tôi đón Tết Độc lập trong nỗi phấp phỏng lo âu”, đại tá Thực hồi tưởng.
Rồi điều không mong đợi nhất cũng xảy ra. Cái tin Bác Hồ từ trần bay tới mặt trận chẳng khác nào tiếng sét giữa trời quang. Đau đớn đến tột cùng! Bọn địch lợi dụng dịp này ra sức tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện chiến dịch giành đất, giành dân. “Chúng rêu rao, Bắc Việt mất cụ Hồ là hoàn toàn mất khả năng chiến đấu. Thắng lợi nhất định sẽ về tay chúng. Nhưng chúng đã nhầm…”, đại tá Thực xiết chặt bàn tay, đôi mắt quắc lên.
Trong giờ phút đau thương ấy, giữa chiến trường thiếu thốn nhưng những bàn thờ Bác cũng được lập ra. Đứng trước bức di ảnh của Người, nước mắt hóa thành đá, thành lòng quyết tâm sớm giải phòng đất nước để Tổ quốc sớm được thống nhất, Nam - Bắc một nhà như Bác mong muốn. Những vùng địch chiếm không có điều kiện tổ chức truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Mình thì mỗi người bày tỏ niềm thương tiếc, kính trọng và biết ơn của riêng mình.
Mỗi người lính, mỗi người dân Việt Nam đã biến đau thương thành hành động cách mạng, biến đau đớn thành sức mạnh chiến đấu. Mỗi người lính tự thấy mình phải chiến đầu dũng cảm hơn nữa để xứng đáng với niềm tin tưởng của Bác Hồ. Gạt nước mắt, họ lại xung trận, biến mỗi tên địch ngã xuống, mỗi mét đất giành được, mỗi thôn làng được giải phóng là một nén hương thơm dâng lên anh linh của Người.
Thế nhưng cũng phải 3 năm sau, thành cổ Quảng Trị mới được giải phóng. Bao nhiêu máu, bao nhiêu nước mắt và bao nhiêu đau thương đã chôn vùi nơi mảnh đất này. Hành trình thiên lý còn kéo dài mãi tới năm 1975, tức là trải qua thêm 2 cái tết Độc lập nữa thì mong ước của Bác Hồ mới trở thành hiện thực. Thành phố Sài Gòn được mang tên Người - Thành phố Hồ Chí Minh, như một lời khắc cốt ghi tâm của các thế hệ sau đối với Bác Hồ - người đã giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Chiến thắng 30/5/1975, non sông thu về một mối, đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất. Trong đoàn quân chiến thắng trở về, đơn vị ông Thực hành quân qua Tp Huế. “Chao ôi, lâng lâng trong niềm vui chiến thắng. Đó là cái Tết độc lập vui nhất, cái tết của thống nhất, trọn vẹn non sông. Nhân dân cố đô đón tiếp bộ đội từ chiến trường, từ chiến khu trở về trong niềm hân hoan chiến thắng" - người chiến sĩ già nhớ lại.
"Năm 1945, Vua Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta. Và phải đến 30 năm sau, chúng ta mới hoàn toàn thoát khỏi xiềng xích, mới có được Độc lập, Tự do đúng nghĩa. Không thể diễn tả hết niềm vui, niềm hạnh phúc bởi đây là cái Tết Độc lập thống nhất non sông. Người dân ào ra đường chào đón đoàn quân trở về. Cờ, hoa rợp trời. Chúng tôi bước đi trong sự lâng lâng của niềm hạnh phúc quá đỗi lớn lao mà đồng đội, đồng chí và cả dân tộc đã phải hi sinh xương máu để giành lấy”, đại tá Thực nhớ lại.
TPHCM bình yên đến lạ!
Thay vì đi chơi xa, về quê trong kỳ nghỉ lễ 2/9 dài ngày, nhiều người dân TPHCM chọn ở lại thành phố . Và đây là dịp để họ tận hưởng những khoảnh khắc yên bình đến lạ của thành phố náo nhiệt này.
Những con đường vắng vẻ, thênh thang; những người thong thả đi trên đường, không vội vã, xô bồ... (Ảnh: Hoài Nam)
Cảnh sinh hoạt bình dị ở Sài Gòn (Ảnh: Hoài Nam)
Khu
bờ kè Nhiêu Lộc - Thị Nghè một thời ô nhiễm đang hồi sinh trở thành nơi
thư giãn, vui chơi của người dân thành phố (Ảnh: Hoài Nam).
Hoài Nam
Hàng nghìn người xếp hàng vào Lăng viếng Bác trong ngày Quốc khánh 2/9
Những con phố, ngõ của Hà Nội tưng bừng màu cờ Tổ quốc. Ngoài đường phố, những ngã ba, ngã tư thông thoáng lạ thường, và dường như tất cả quy tụ lại nơi xếp hàng để vào viếng Lăng Bác.
Đến 11 giờ trưa nay 2/9, dòng người vẫn nối nhau dài tít tắp để được vào Lăng viếng Bác Hồ. Một
cán bộ bảo vệ tại điểm công viên Bách Thảo cho biết, ngay từ 7 giờ sáng
lượng người vào viếng Lăng Bác đã đông kín, do đó lực lượng cảnh vệ đã
được lệnh mở thêm hướng vào viếng Lăng Bác theo lối qua vườn Bách Thảo.
Những hình ảnh trong ngày Quốc khánh 2/9 tại Hà Nội:
Bên Lăng Bác Hồ rợp cờ hoa ngày Quốc khánh
Lực lượng cảnh vệ hướng dẫn bà con xếp hàng vào Lăng viếng Bác Hồ tại cổng công viên Bách Thảo
Do lượng khách vào viếng tăng đột biến, lực lượng cảnh vệ phải mở thêm lối vào thông qua công viên Bách Thảo
Mặc dù đã 11 giờ trưa nhưng dòng người vẫn tiếp tục tiếp nối
Tại
ngã tư Chu Văn An- Điện Biên Phủ, Hội phụ nữ phường Điện Biên đặt bình
nước lọc miễn phí tại điểm trong giữ xe để phục vụ du khách muôn phương
Giao thông trên nhiều tuyến phố Hà Nội thông thoáng vào ngày 2/9

Nhiều con phố trở nên thông thoáng lạ thường dễ chịu
Những tuyến phố cổ luôn được trang hoàng rợp cờ hoa vào ngày Quốc khánh
Hồ Hoàn Kiếm luôn là điểm thả bộ, thư giãn thú vị
Phố Đinh Tiên Hoàng tấp nập du khách
Những vết đạn bên tường rào Bắc Bộ Phủ dấu tích của một thời làm nên thắng lợi để có ngày vui hôm nay
Nơi
đây, ngày 19/8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Thủ đô đã
giành chính quyền thắng lợi. Từ tháng 8/1945 đến 12/1946 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm việc tại nơi này.
Người dân xứ Thanh viếng Bác Hồ trong ngày Tết Độc lập
Những người con xứ Thanh hòa mình vào niềm vui chung của ngày Tết Độc lập và không quên “người cha già dân tộc”. Nhiều người đã cùng nhau đến dâng hương viếng Bác để tưởng nhớ công lao to lớn của Người.
Có mặt tại Nhà lưu niệm Bác Hồ tại thành phố Thanh Hóa vào sáng ngày 2/9, chúng tôi không khỏi xúc động khi chứng kiến từng dòng người từ khắp nơi đổ về đây vào viếng Bác.
Người dân đến dâng hương tưởng nhớ Bác Hồ trong ngày lễ Quốc Khánh và 45 năm ngày mất của Người với lòng thành kính.
Người dân xúc động khi ngắm lại những kỷ vật của Người.
Sau khi dâng hương, người dân được ngắm lại những kỷ vật, những bức ảnh ghi dấu lại kỷ niệm những lần Bác Hồ về thăm Thanh Hóa như: chiếc áo vải sờn vai, chiếc gậy tre, đôi dép cao su của Bác đã dùng hay chiếc máy ty-pô Bác đã dùng đánh chữ. Hay những kỷ vật chiếc rổ tre, chiếc chài quăng lưới Bác cùng ngư dân Sầm Sơn đánh cá trong lần Bác về thăm Thanh Hóa....
Chị Nguyễn Thị Dung, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa không khỏi xúc động: “Cả đời Bác quá giản dị, những đồ vật quá đơn sơ, nhỏ nhoi, bình dị đến lạ thường nhưng lại bên Bác suốt những năm tháng cuộc đời. Tuy chưa được gặp Bác, được thấy Bác nhưng lúc nào hình ảnh của Bác vẫn luôn trong tâm trí tôi. Lòng tôi luôn dành cho Bác sự kính trọng lớn về những công lao của người”.
Kỷ niệm 69 năm ngày Quốc Khánh của đất nước (2/9/1945 - 2/9/2014) và 45 năm ngày Bác Hồ mất (3/9/1969 - 3/9/2014), nhà lưu niệm Bác Hồ tại Thanh Hóa sẽ mở cửa đến hết ngày 3/9 để người dân khắp nơi vào viếng Bác.
Ngoài ra những kỷ vật, hình ảnh tư liệu của những lần Bác Hồ về thăm Thanh Hóa cũng được trưng bày để người dân xứ Thanh hiểu rõ hơn về Bác Hồ - Người cha già kính yêu của dân tộc với quê hương Thanh Hóa.
Dịp này, người dân khi đến dâng hương tưởng nhớ Bác Hồ còn được chiêm ngưỡng hơn 20 tấm bia chủ quyền biển đảo là các hòn đá được lấy từ các đảo nhỏ từ hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về đây để trưng bày. Với mong muốn cho các thế hệ người Việt Nam hiểu rõ hơn về chủ quyền biển đảo Tổ Quốc như lời Bác Hồ căn dặn trong di trúc.
Bác Hồ trò chuyện với xã viên HTX Yên Trường, huyện Yên Định trong lần về thăm tháng 12/1961.
Bác Hồ thăm và nói chuyện với công nhân nhà máy cơ khí Thanh Hóa nặm 1961.
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Thanh Hóa.
Bác Hồ thăm các cán bộ đang nghỉ dưỡng tại bãi biển Sầm Sơn - Thanh Hóa.
Bác Hồ nói chuyện với các cán bộ chiến sỹ Thanh Hóa.
Bác cùng ngư dân Sầm Sơn kéo lưới đánh cá.
Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014
Cứu nạn tàu cá trong khu vực biển thời tiết xấu
Sáng nay 1/9, Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực II (Danang MRCC) cho biết đã điều tàu SAR 412 ra khu vực biển Hoàng Sa để ứng cứu một tàu cá của ngư dân tỉnh Khánh Hòa với 9 ngư dân trên tàu bị hỏng máy, thả trôi.
Trước đó, lúc 9h07 ngày 31/8, Danang MRCC nhận được thông tin từ Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam (Vietnam MRCC) với nội dung, tàu KH 94969 TS có 9 thuyền viên do ông Phan Hoan thường trú tại phường Linh Thủy (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) là chủ tàu kiêm thuyền trưởng trong khi di chuyển về bờ thì bị hỏng máy.
Tàu SAR 412 lên đường ứng cứu tàu cá bị nạn
Do các thuyền viên tàu KH 94969 TS không thể khắc phục được sự cố nên thả trôi từ 1h00 ngày 26/8. Lúc 8h45 ngày 31/8, tàu ở tọa độ 18021’N - 112012’E (cách Đà Nẵng khoảng 260 hải lý về hướng Đông Bắc). Thời tiết khu vực biển xấu trong khi nước ngọt, lương thực, thực phẩm của tàu sắp hết, tinh thần, sức khỏe thuyền viên mệt mỏi, hoảng loạn. Tàu yêu cầu giúp đỡ khẩn cấp.
Trước tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, để đảm bảo an toàn sinh mạng cho thuyền viên tàu KH 94969 TS; được sự đồng ý của Tổng giám đốc Vietnam MRCC, Giám đốc Danang MRCC đã điều động tàu SAR 412 đi cứu nạn. Tàu SAR412 đã rời cầu lúc 9h30 ngày 31/8.
Đến 20h40 ngày 31/8, tàu SAR 412 tiếp cận được tàu KH 94969 TS tại tọa độ 17054’N - 111036’E. Lúc này, tàu SAR 412 hỗ trợ nước ngọt, lương thực, thực phẩm cho tàu KH 94969 và di chuyển thuyền viên sang tàu SAR 412 để chăm sóc sức khỏe. Đến 21h10 cùng ngày, tàu SAR 412 chuyển hướng đưa 9 thuyền viên và hỗ trợ lai dắt tàu bị nạn về bờ.
Dự kiến khoảng 21h tối nay 1/9, tàu SAR về đến cầu cảng Danang MRCC.
Về làng thợ hồ nghe chuyện người đi xây đảo Trường Sa
Hơn 20 năm qua, biết bao nhiêu thế hệ ở làng Bỉnh Di, huyện Giao Thủy nối tiếp nhau đi xây công trình biển đảo Trường Sa và các đảo lân cận. Với người dân Bỉnh Di, Trường Sa là máu thịt thiêng liêng của tổ quốc, là ngôi nhà thứ hai của họ.
Làng Bỉnh Di là một làng nhỏ chỉ với 3 xóm, vốn là vùng đất giáp biển, người dân nơi đây chủ yếu là làm nông nghiệp suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Làng vốn giáp biển nên quỹ đất nông nghiệp nhỏ. Hàng năm, qua vụ màu, trai làng Bỉnh Di lại lập thành một tổ thợ hồ đi khắp nơi làm ăn kiếm thêm thu nhập.
Anh Phan Văn Bảy hào hứng kể lại chuyện tham gia xây dựng công trình biển đảo Trường Sa.
Câu chuyện thế hệ người làng Bỉnh Di nối tiếp nhau đi xây công trình biển đảo Trường Sa bắt đầu vào năm 1991. Lúc này Trung tá Hoàng Kiền, là người làng Bỉnh Di, đang là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Hải quân 8, biết ở quê có nhiều người là thợ hồ có kinh nghiệm và tay nghề cao nên ông đã về tuyển một tổ thợ giỏi ra xây một ngôi nhà 2 tầng, ngọn hải đăng và cột mốc ở đảo Nam Yết, thuộc quần đảo Trường Sa.
Cũng từ đấy, các thế hệ Bỉnh Di noi gương theo lớp cha anh đi trước, hăng hái tham gia các đợt tuyển người đi xây dựng ở đảo Trường Sa và các đảo lân cận. Cũng từ đấy người dân Bỉnh Di mới lưu truyền đoạn thơ của trung tá Hoàng Kiền nói về chuyện xây dựng đảo của người làng Bỉnh Di.
“Sóng xô phai bạc mái đầu
Lòng dân với đảo áo nâu sáng ngời
Bỉnh Di làng nhỏ đẹp tươi
Đảo xa in dấu chân người nông dân”
Gia đình anh Bảy có đến 8 thành viên gồm con, cháu tham gia xây dựng công trình biển đảo.
Ngoài những thế hệ đi trước, gia đình ông Phan Trọng Phán có lẽ là gia đình nổi tiếng nhất khi được mệnh danh là “đại gia đình biển đảo”. Gia đình ông Phán có tổng cộng 8 thành viên gồm cả con và cháu từng tham gia xây dựng trên đảo Trường Sa.
Tiếp chúng tôi, anh Phan Văn Bảy (sinh năm 1976), con út của ông Phan Trọng Phán người cũng tham gia xây dựng trên đảo Trường Sa tự hào kể lại cơ duyên của gia đình đến với việc xây dựng đảo. Làng Bỉnh Di trước đây vốn nghèo đói, thiếu thốn đủ thứ, nhà anh Bảy cũng chẳng lấy gì làm khấm khá. Ngoài nghề trồng lúa, dân làng chủ yếu làm thợ hồ kiếm thêm thu nhập. Cũng từ chính cái nghề này đã làm cầu nối đưa anh em, con cháu gia đình anh Bảy có điều kiện cống hiến cho biển đảo tổ quốc.
Trong gia đình anh Bảy, tham gia đi xây dựng đảo đầu tiên là hai anh Phan Trung Thông và Phan Văn Phông. Nơi đầu tiên hai anh đến xây dựng công trình là đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), cùng các đảo lân cận khác. Tiếp nối theo hai người anh trai, lần lượt từng thành viên trong gia đình anh Bảy bắt đầu rời xa gia đình in dấu chân trên nhiều vùng biển đảo của tổ quốc.
Anh Phan Văn Bốn (anh trai anh Bảy) chụp ảnh lưu niệm ở đảo Nam Yết.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất với anh Bảy là vào năm 2011, anh Bảy cùng các anh trai Phan Văn Bốn, Phan Văn Năm và 5 cháu trong gia đình cùng 40 công nhân xây dựng của Đội xây dựng số 1, Xí nghiệp 2, Công ty Xây dựng Tân cảng Sài Gòn ra Trường Sa. Đây cũng là lần thứ ba anh Bảy đi xây mà có đông thành viên trong gia đình nhất.
Anh Bảy tâm sự: “Năm 2011 gia đình chúng tôi có đến 8 người đi xây dựng những công trình dân sinh, bờ kè biển ở Đảo Nam Yết. Nhiều người thợ mới lần đầu đi xa trên biển không quen nên rất mệt mỏi vì say sóng. Nhưng khi vừa đặt chân đến đảo Nam Yết sau 2 ngày đêm hành trình, mấy anh em quên cả mệt nhọc, chỉ kịp ổn định chỗ ở rồi bắt tay vào làm việc luôn”.
Cũng từng tham gia xây dựng các công trình trên đảo Trường Sa, hai bố con ông Nguyễn Văn Dũng và Nguyễn Văn Nhất vẫn còn nhớ như in những ngày tháng lênh đênh làm bạn với sóng biển để cố gắng hoàn thành những công trình vững chắc góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước. Vẫn còn đó kỷ niệm và kỷ vật là những con ốc đảo mà những người lính đã tặng ông Dũng. Với ông, đó là những thứ mà ông không bao giờ quên.
Điều kiện làm việc sinh hoạt trên đảo khác hẳn với điều kiện làm việc trên đất liền, theo như lời anh Bảy và ông Dũng cho biết, việc xây dựng phụ thuộc hoàn toàn vào mực nước biển. Thông thường công việc của họ bắt đầu từ lúc 17h chiều, là lúc nước rút và kết thúc vào lúc 2h sáng ngày hôm sau khi mực nước bắt đầu dâng lên.
Chính vì điều kiện làm việc khác hoàn toàn so với đất liền nên những người thợ hồ được đi xây dựng đảo ngoài tay nghề giỏi phải có sức khỏe, khéo léo, kiên nhẫn và một tinh thần thép. Ngoài điều kiện làm việc khó khăn, việc sinh hoạt cũng không phải dễ dàng gì. Người thợ xây ngoài việc chống chọi với nắng gió biển đảo thì sống ở đảo thiếu nước ngọt, rau xanh luôn là nỗi lo thường trực.
Kỷ vật sau những lần đi xây dựng công trình biển đảo là những con ốc biển.
Ông Dũng tâm sự: “Lúc đầu mới ra anh em chúng tôi đều không quen với khí hậu biển đảo, cộng thêm nỗi nhớ nhà nên công việc cũng không hiệu quả lắm. Nhưng cứ nghĩ đến chuyện các công trình chưa hoàn thành đúng tiến độ, anh em lại động viên nhau cố gắng làm việc. Có hôm bão gió triền miên, chuyện vài tháng phải ăn đồ khô, đồ hộp là bình thường. Thời ấy nước ngọt trên đảo còn khan hiếm, một người chỉ được dùng đúng 10 lít nước/ngày để tắm giặt và vệ sinh …”.
Anh Phan Văn Phông - anh trai anh Bảy cho biết: “Sức khỏe bây giờ của tôi không còn cho phép, chứ nếu có sức khỏe tôi vẫn xin được ra đảo làm, ở nhà mà nghĩ đến những ngày tháng cùng anh em đồng nghiệp và lính đảo làm việc thấy thiếu thốn quá. Mong làm sao cho anh em đồng nghiệp luôn khỏe mạnh tiếp tục xây những công trình lớn để anh em lính đảo chắc tay súng bảo vệ vững chắc từng tấc đất biển đảo”.
Gần 20 năm qua đi, Bỉnh Di với từng lớp thế hệ với biết bao lượt người thay nhau ra xây dựng các công trình biển đảo quê hương. Cũng gần 20 năm qua, làng Bỉnh Di còn được người dân gọi với cái tên “làng xây dựng đảo”.
Nghệ An: Tộc người ngủ ngồi vẫn sống giữa rừng
Sau 8 năm đề án di dời người Đan Lai ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An ra khỏi rừng sâu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hiện phần lớn tộc người này vẫn chưa có nơi an cư.
Theo đề án di chuyển tộc người Đan Lai được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hàng trăm hộ của tộc người này sống tại 2 bản Bùng và Khe Cồn, xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An được di dời đến các khu tái định cư (TĐC) ở xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông. Thời gian thực hiện đề án từ năm 2007-2009 nhưng đến năm 2014, chỉ 42 hộ được di dời. Trong khi trên150 hộ khác còn đang phải sống khốn khổ ở rừng sâu thì nhiều căn nhà tại khu TĐC lại bị bỏ hoang.
Chưa xây xong khu tái định cư
Khu TĐC số 2 ở bản Kẻ Tắt, xã Thạch Ngàn được khởi công vào tháng 1-2011 để đón nhận 35 hộ tộc người Đan Lai. Hiện nay, khu TĐC này không một bóng người. Hơn 30 căn nhà sàn 2 tầng được xây dựng kiên cố bị bỏ hoang. Các hạng mục khác như trường học, nhà văn hóa, trạm xá, công trình nước sạch, trạm điện… không ai quản lý nên cây cối, cỏ dại bao trùm.
Khu tái định cư số 2 của tộc người Đan Lai đang bị bỏ hoang
Từ bản Kẻ Tắt, đi sâu vào rừng khoảng 4 km thì đến bản Bá Hạ, xã Thạch Ngàn - nơi được quy hoạch khu TĐC số 3, bố trí cho 69 hộ dân Đan Lai ở. Sau nhiều năm triển khai, hiện khu TĐC này vẫn chỉ là bãi đất trống.
Liên quan đến việc xây dựng khu TĐC cho tộc người Đan Lai ở xã Thạch Ngàn, theo báo cáo của UBND huyện Con Cuông, đến tháng 8-2014, tổng số nguồn vốn đã được giải ngân là trên 72 tỉ đồng. Sau 8 năm thực hiện dự án, chỉ có khu TĐC số 1 ở bản Thạch Sơn, xã Thạch Ngàn được hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Ông Trần Anh Tuấn, Trưởng Ban Quản lý dự án huyện Con Cuông, thừa nhận: “Dự án bị kéo dài do nhiều nguyên nhân, như thiếu vốn, quy hoạch ban đầu có nhiều điểm bất hợp lý... Ngoài ra, việc thi công kéo dài khiến chi phí của công trình đội lên nhiều so với phê duyệt ban đầu”.
Ông Tuấn cho biết khu TĐC số 2 đã dừng thi công do thiếu vốn. Trong khi đó, với khu TĐC số 3, do địa điểm quy hoạch xây dựng trước đây không phù hợp nên đang phải tìm địa điểm khác.
Lạc hậu, đói nghèo
Tộc người Đan Lai cư trú chủ yếu ở khu vực thượng nguồn Khe Khặng, xã Môn Sơn. Do họ sống trong vùng lõi của Vườn Quốc gia Pù Mát (cách trung tâm huyện 40 km) nên muốn đến nơi này, người ta phải đi bộ cắt rừng rồi dùng thuyền nhỏ men khe suối mất rất nhiều thời gian.
Ở tách biệt với thế giới bên ngoài nên người Đan Lai có tập tục lạc hậu, sống đói nghèo quanh năm. Điều đáng báo động nhất là do họ ở biệt lập trong rừng nên xảy ra tình trạng hôn nhân cận huyết dẫn đến suy thoái về giống nòi.
Để cứu tộc người Đan Lai, tháng 12-2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 280 phê duyệt đề án Bảo tồn và phát triển tộc người thiểu số Đan Lai sinh sống tại vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát. Tổng kinh phí của dự án là 93,24 tỉ đồng.
Một trong những hợp phần quan trọng nhất của dự án là di chuyển 146 hộ dân tộc người thiểu số Đan Lai lúc đó ở thượng nguồn Khe Khặng đến nơi ở mới là xã Thạch Ngàn. “Tuy nhiên, do nhiều vướng mắc nên đến nay, chúng tôi chỉ mới di chuyển được 42 hộ. 104 hộ khác vẫn chưa thể di chuyển đến khu TĐC mới” - ông Hoàng Đình Tuấn, Chủ tịch UBND huyện Con Cuông, cho biết.
Ngoài 104 hộ dân chậm được di dời ra khỏi rừng thì từ năm 2006 đến tháng 8-2014, đã có thêm 66 hộ dân mới tách ra ở riêng. Đời sống của họ rất thiếu thốn, lạc hậu, tình trạng hôn nhân cận huyết thống vẫn diễn ra phức tạp.
“Khi người Đan Lai tập trung đông trong vùng lõi, họ sẽ săn bắt, hái lượm, khai thác gỗ, về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự bảo tồn của Vườn Quốc gia Pù Mát” - ông Trần Xuân Cường, Phó Giám đốc Vườn Quốc gia Pù Mát, lo ngại.
Tìm thấy thi thể học sinh bị nước lũ cuốn trôi tại tràn Cầu Hồ
Sau 3 ngày nỗ lực tìm kiếm, cháu Trương Thị Kim Anh, nạn nhân trong vụ đuối nước tại đập tràn Cầu Hồ (xã Mậu Lâm, Như Thanh, Thanh Hóa) đã được tìm thấy.
Sáng ngày 1/9, ông Vi Vă n Xuân, Trưởng Công an xã Mậu Lâm cho biết,vào lúc 7h50 phút sáng nay, lực lượng cứu hộ đã tìm thấy nạn nhân cuối là cháu Trương Thị Kim Anh (SN 2001, ngụ xã Phượng Nghi, huyện Như Thanh), cách tràn Cầu Hồ khoảng 100 m về phía hạ lưu.
Cũng theo ông Xuân thì hiện thi thể nạn nhân đã được chúng tôi bàn giao lại cho gia đình đưa về quê mai táng.
Tràn Cầu Hồ, nơi xảy ra vụ đuối nước thương tâm
Trước đó như Dân trí đã thông tin, vào lúc 13h ngày 30/8, một nhóm học sinh khoảng 5-6 em (đang học ở Trường trung học cơ sở dân tộc nội trú huyện Như Thanh), rủ nhau đến nhà một người bạn ở thôn Cầu Hồ để chơi.
Lúc ra về, một cơn mưa trước đó đã làm cho đập tràn dẫn vào thôn Cầu Hồ bị ngập sâu trong nước. Thấy các em nhỏ cố tìm cách qua tràn, chị Trịnh Thị Huyền (SN 1993, ngụ thôn Cầu Hồ), đang chăn trâu gần đó đã nhận lời dắt các em qua tràn. Tuy nhiên, do nước quá to khiến cháu Hoa bị trượt chân rồi kéo theo chị Huyền và cháu Kim Anh ngã. Chị Huyền đã cố gắng kéo hai em nhưng cũng không kịp. Cả 3 đều bị dòng nước xiết cuốn trôi xuống suối, mất tích.
Nhận được thông tin, chính quyền địa phương 2 xã đã huy động người tìm kiếm xác các nạn nhân. Đến 17 giờ chiều ngày 3/8 tìm thấy thi thể chị Huyền, 7 giờ 10 phút sáng ngày 31/8, thi thể cháu Hoa cũng được tìm thấy
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)