Phố hàng Mành |
Không
hẳn thế. Bởi mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi,
còn đến hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào, Hàng Tre, Hàng Sắt,
Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè... trong hơn ba trăm sáu mươi phố của Hà Nội hiện
nay. Hà Nội lớn lên không ngừng. Gương mặt từng phố ngày mỗi đổi thay và hẳn
trong lòng nó, trong lòng mỗi phố, trong lòng mỗi căn nhà và mỗi con người Hà
Nội.
Cuộc
đời là một dòng sông chảy đi bất tận, mang lớp lớp phù sa mới bồi đắp vào cuộc
đời mình. Có những phố nguyên có chữ Hàng nhưng đã được mang tên mới như Hàng Cỏ
(Trần Hưng Đạo), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu phía trên), Hàng
Lọng (Đường Nam Bộ rồi Lê Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn, (Quang
Trung), Hàng Bột (Tôn Đức Thắng)…
Trong
ký ức của những người Hà Nội, một căn nhà, một góc phố, một gốc cây, có khi chỉ
là một âm thanh, một làn hương, một màu sắc... cũng hiện lên bao hình ảnh thân
yêu, gợi cảm. Đương nhiên cái mới phải sinh ra, phải vươn lên, cái cũ phải
nhường chỗ. Măng thay tre. Con sông tiếp nhận những dòng suối. Nhưng cây măng
chớ quên bụi tre đã ôm ấp che chở mình. Dòng sông hình thành sao được nếu không
có những con suối cần cù năm tháng trong rừng sâu im vắng?
Người
Hà Nội hôm nay đi quanh Hồ Gươm, đi vòng Hồ Tây, đi thuyền trên hồ Thống Nhất,
thả hồn trên đường Thanh Niên có hoa phượng hoa ban tím (còn gọi là cây móng
bò), vào bảo tàng Hồ Chí Minh, ngắm vườn hồng đường Bắc Sơn, ra Điện Biên nhìn
lại Cột Cờ cổ kính, vòng về chợ Đồng Xuân, rẽ ra bờ sông Cái có cầu Chương
Dương, bước lên con đê xanh... có bao giờ quên được những tên phố thân thương,
gợi nhớ cả một thời xa xưa oanh liệt và trữ tình.
Hà
Nội có những nghề cổ truyền, có đám, có phường, có những món ăn thanh lịch,
những cảnh trí thơ mộng và cả những niềm vui mộc mạc giản dị của một vùng quê
Bắc Bộ. Hàng Bài không còn là bài lá, tam cúc, tổ tôm có những cây xe hồng, tịnh
vàng xuất hiện trên ổ rơm những ngày tết ấm cúng trong bao gia đình, những cây
bát sách, cửu vạn mà câu ca dao đã phải thốt lên: "Làm trai biết đánh tổ tôm,
uống trà mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều" là ba cái thú, ba sự lịch lãm một thời;
những quân bài đã thành kỷ niệm in trong ký ức bao thế hệ. Nay ở đây có trường
Trưng Vương, nhà triển lãm, hiệu bán sách khoa học, bán băng nhạc, có cửa hàng
bách hóa lớn nhất Thủ đô.
Phố hàng bạc |
Nhà
cô Bé Tý đã thay đổi hoàn toàn, không còn ai nhớ đến nữa, đình Hàng Bạc cũng
hoang tàn, những người thợ bạc Châu Khê (Cẩm Bình, Hải Dương) có đình thờ riêng,
nay lang bạt đi đâu, hiệu thuốc cam có Con Hươu, còn đấy, nhưng em bé nào còn ăn
thứ thuốc cam ấy (có đến bốn năm hiệu cùng có Con Hươu, cũng hơi phiền). Hàng
Chuối từng có những bãi chuối bạt ngàn để chăn đàn voi cho nhà vua phủ chúa, nay
là một phố dài cây xanh rợp bóng, những biệt thự yên lặng như vầng trán trầm tư
trong tịch mịch. Cái màu xanh đất bãi ấy mất đi chăng? Không, nó lại hồi sinh
trong màu lá hai bên đường cây, để xuân về, óng ả, tơ non, tạo ra cái mái nhà
xanh của thủ đô rất Hà Nội. Trụ sở Hội Phụ nữ lúc nào cũng có bóng cây dịu mát,
cái dịu mát của cây hay của người phụ nữ Việt Nam ? Bàn tay nào khéo léo, tâm hồn
nào giàu rung động, để đã từ một ống tre, một quả bầu khô, một miếng da rắn...
tạo ra cây nhị cây hồ nhất là cây đàn bầu bất hủ.
Hàng
Đàn hẳn một thời náo nhiệt những giai nhân tài tử, nghệ sĩ đến so dây, nắn phím.
Những trái tim ấy đã ra đi nhưng tài hoa còn lại với đất nước nghìn năm văn vật.
Hẳn họ cũng đã quá bước tạt sang Hàng Quạt bên cạnh để thửa cái quạt thước,
chiếc quạt tím trang kim, chiếc quạt gỗ đàn hương thoảng gió thơm, chiếc quạt gỗ
trầm ngào ngạt, khiến yêu cái quạt yêu cả người cầm quạt, nói như nữ sĩ Xuân
Hương:
"Mười
bẩy hay là mười tám đây
Cho
ta yêu dấu chẳng rời tay...
...
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày..."
Quạt
tạo ra gió mát, quạt còn che nửa mặt hoa cho khỏi rám má hồng trưa nắng, làm
duyên cho tao nhân... Hàng Nón sao lại không từng tặng liền anh liền chị đất
Kinh Bắc những chiếc nón thúng quai thao để: "Yêu nhau gửi nón cho nhau Về
nhà dối mẹ qua cầu gió bay...". Những chiếc nón ấy đã ở lại mãi mãi với câu
ca say đắm lòng người, trường tồn với dân tộc tài hoa và tha thiết. Hàng Khay có
những người thợ khảm trứ danh. Từ mảnh gỗ đơn sơ, từ chiếc vỏ con trai chẳng giá
trị gì, họ đã tạo ra những tác phẩm thực sự, óng ánh, bảy sắc cầu vồng; những
đường nét, phong cảnh, tưởng như đang hiển hiện trước mắt mà ta đang bước vào đó
trên đoạn đường ta đang đi dạo. Bến sông Nhị Hà xưa còn ăn sâu vào đất liền hơn
bây giờ nhiều. Từ rừng núi, theo những con ngựa thồ, những chiếc xe thô sơ và cả
những con thuyền lớn... những củ nâu xù xì nhưng bền bỉ sắc màu dân dã quê hương
đã về đây để nhuộm cho mẹ cho chị những tấm áo che một nắng mấy sương. Dọc Hàng
Nâu xuống Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Tre. Nước Mắm Nghệ, muối chợ Cồn
Văn Lý, ang chĩnh Thổ Hà, tre vầu rừng Bắc... đã theo những mảnh buồm, những bè
nổi lênh đênh về với kinh kỳ. ôi những con thuyền đã rong ruổi bao dặm trường
sóng nước, neo vào bến Cầu Đất, gửi cho Hà Nội những món quà bền chắc, nồng mặn
đậm đà, để mà nhớ nhau mãi mãi như câu ca dao: "Gừng cay muối mặn xin
đừng...".
Người
Hà Nội tài hoa, tao nhã, hiếu học, Hàng Giấy, Hàng Bút còn đó. Những khoa thi
nào, anh khóa, cậu tú, bác cử đi chọn giấy bút để tung hoành trên trường văn
trận bút. Cái "công danh xa mã" ấy từng đã làm khổ bao người, những anh đồ dài
lưng tốn vải, những người phụ nữ ước mơ võng anh đi trước võng nàng theo sau,
lụi cụi cả một đời cho tuổi trẻ trôi qua lúc nào không biết. Tuy nhiên chúng ta
cũng tự hào còn lưu lại được nhiều áng thơ văn thiên cổ kỳ tài, những tuổi tên
còn khắc đầy trên hơn tám chục tấm bia đá nơi Văn Miếu kia. Còn cuộc đời thường
của người dân lao động với những nhu cầu không thể thiếu được thì đã có Hàng
Gạo, Hàng Cá, Hàng Đường, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Dầu, Hàng Bột (Tôn Đức
Thắng). Muốn sắm sửa thì lên Hàng Bát Đàn, Bát Sứ, Hàng Đũa (Ngô Sĩ Liên). Cha
già mẹ héo cần một cỗ áo thì đã có Hàng Sũ gần kia. Tháng chín tháng mười giở
trời, đau cả xương cốt, món rươi của vùng Hải Đông (Hải Dương, Hải Phòng ngày
nay) đổ về kinh kỳ không ít. Khen ai là người đầu tiên đã biết chọn vỏ quýt làm
gia vị cho món chả rươi, quả là tài tình, quả là nghệ thuật. Cái lưỡi con người
tinh tế đến thế là cùng. Hàng Rươi cũng là nơi họp chợ hoa ngày tết. Cô gái đi
mua hoa, cành đào hay cành mận, nhánh hải đường hay bông vạn thọ, cô có thể sắm
thêm gương lược mà điểm trang cho thêm nhan sắc, cho đẹp cả mùa xuân, có Hàng
Lược đó.
Hà
Nội có một cái dốc khá cao. Đó là Hàng Than. Cái thời chưa có điện, chưa có than
đá, than quả bàng, hẳn ở đây luôn luôn bận rộn những hàng bán than hoa để thơm
lừng vị chả nướng, để ấm nồng những lồng ấp, để thanh tao những chén trà của các
cụ đồ trong sương sớm. Sau này, Hàng Than còn nổi tiếng với món bánh cốm ngon lạ
thường, một món quà đặc biệt, chỉ Hà Nội mới có tài làm ngon đến thế. Cốm xanh
biếc, nhân đỗ xanh vàng hươm, cùi dừa trắng tinh, điểm vài viên hạt sen nhừ tơi;
được gói trong lá chuối tươi, lại một màu xanh óng chuốt của quê hương đồng bãi,
buộc chặt bằng chiếc lạt đỏ cánh sen, gợi mùa cưới chan chứa ân tình. "Nằm đất
với chị hàng hương"...
Hàng
Hương cô hàng, người thơm tho gỗ hoàng đàn, thoảng mùi xạ, phảng phất hương
trầm... Tết, ngày giỗ mà không có hương sao còn gọi là tết, là giỗ? Ngôi chùa cổ
Việt Nam, ngôi đình làng trang nghiêm sao có thể thiếu được những nén hương đen,
những cuộn hương vòng, những cây hương sào thắp một ngày chưa hết, phố Hàng
Hương tuy nhỏ nhưng thực sự là một phố mang lại cái cần thiết cho Hà Nội, cho cả
vùng về đây mà mua mà cất, một cái duyên riêng vậy. Màu sắc óng ánh trong chiếc
thắt lưng hoa lý, hoa đào, hồ thủy, thiên thanh, dải yếm đỏ, áo đổi vai nâu
non... cứ phấp phới lên trên phố Hàng Đào, nhất là những ngày phiên chợ tơ. Các
thứ lụa tơ từ Ba La Trinh Tiết của tỉnh Đơ, của Đồng Tỉnh Huê Cầu của tỉnh
Bắc... mang đến. Còn Hàng Vải thâm là nơi đi về của người dân áo vải. Cô gái
Đình Bảng, Cầu Lim mặc váy cửa võng cạp điều mang vải về đây nhuộm hoặc trả cho
khách hẳn từng làm xao xuyến bao chàng trai kinh thành.
Trung
thu, tiếng trống ếch rộn ràng. Trường học nào cần bưng lại mặt trống da trâu để
kịp khai trường, đình làng nào cần một chiếc trống đẽi để vào đám giêng hai,
Hàng Trống sẵn sàng chờ đón. Phố này đến nay vẫn còn mấy nhà có nghề làm trống
cổ truyền, dựng tang trống, thuộc da, lên mặt trống... đều bằng phương pháp thủ
công nhưng chiếc trống hàng chục năm vẫn kêu vang, không hỏng. Hà Nội đã sống
gần ngàn năm dưới chế độ vua quan. Có bao cái đẹp và cũng có bao cái phải mất đi
nhường cho cái mới. Hàng Lọng (phố Lê Duẩn) có ga Hàng Cỏ tấp nập ngày đêm, đón
và đưa những con tàu Nam Bắc, ra cảng Hải Phòng, lên tỉnh có chè ngon nổi tiếng
Thái Nguyên... Với trên sáu mươi phố mang chữ Hàng, vẻ xa xưa chưa hết, Hàng
Mành vẫn làm mành. Hàng Hòm vẫn đóng hòm, va li gỗ, Hàng Thiếc làm thùng tôn,
ống máng, cắt kính, làm đồ chơi trung thu cho trẻ, chỉ tiếc đồ chơi ít thay đổi,
không theo kịp sự phát triển của xã hội và lớn nhanh của tâm lý thiếu nhi. Hàng
Mã vẫn làm đèn lồng hoa giấy. Hàng Bông vẫn còn nhiều nhà làm cốt chăn bông. Bên
cạnh đó nhiều phố mang tên cũ nhưng không còn một ai làm nghề cũ ấy nữa: Hàng
Gà, Hàng Cá, Hàng Gai, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bồ... Vẫn cảm động khi bước chân
đến những khu nhà khấp khểnh như tranh Bùi Xuân Phái: Hàng Cân, Hàng Chỉ, Hàng
Chai, Hàng Hành, Hàng Bè, Hàng Giấy, Hàng Vôi, Hàng Cháo...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét