Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông dậy sóng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông dậy sóng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Trung Quốc điều 2 tàu 1.000 tấn tuần tra trái phép quần đảo Hoàng Sa


Bắc Kinh hôm nay (4/5) lại tiếp tục có hành vi ngang ngược, khi lại đưa biên đội tàu Hải giám gồm 2 chiếc tải trọng 1.000 tấn tới khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để tiến hành hoạt động tuần tra trái phép.

Trung Quốc điều 2 tàu hải giám tuần tra trái phép quần đảo Hoàng Sa. (Ảnh:
Trung Quốc điều 2 tàu hải giám tuần tra trái phép quần đảo Hoàng Sa. (Ảnh:China News)

Tờ China News cho biết sáng 4/5, Trung Quốc đã điều 2 tàu chấp pháp thuộc biên chế của tỉnh Hải Nam là tàu “Hải giám 2168” và “Hải giám 2169” loại 1.000 tấn, xuất phát từ Hải Khẩu tới khu vực Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam để tuần tra trái phép. 

Ngoài ra, các tàu của Bắc Kinh cũng dự kiến tới tuần tra tại "quần đảo Trung Sa" (?) Thực chất, cái mà Trung Quốc gọi là "quần đảo Trung Sa" chỉ là bãi ngầm Macclesfield nằm ở phía Đông Nam quần đảo Hoàng Sa. 

Macclesfield là bãi ngầm rộng nhất trên biển Đông (cùng với bãi Cỏ Rong trong quần đảo Trường Sa) và không phải là quần đảo đúng nghĩa như quy định trong Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS 1982).

Tham dự hoạt động tuần tra trái phép này có một số đơn vị của tỉnh Hải Nam như: Cơ quan giám sát hải dương và ngư nghiệp, Trung tâm nghiên cứu dự báo khí tượng biển, Viện nghiên cứu địa chất biển. 

Đặc biệt, trong chuyến đi lần này, biên đội tàu ngoài việc tiến hành các hoạt động tuần tra bất hợp pháp như mọi lần, còn thực hiện các hoạt động khảo sát biển nhằm tìm kiếm tài nguyên biển, điều tra đánh giá môi trường khí hậu biển, môi trường sinh thái biển và tài nguyên ngư nghiệp.

Hoạt động tuần tra  trái phép quần đảo Hoàng Sa lần này của biên đội tàu Hải giám trên sẽ kéo dài khoảng hơn một tuần (từ ngày 4-11/5). 

Trước đó, vào ngày 21/4, Bắc Kinh cũng điều biên đội tàu Hải Tuần 21 và Hải Tuần 1103 tới Hoàng Sa để tuần tra bất hợp pháp trong 11 ngày.

“Hải giám 2168” và “Hải giám 2169” là tàu hải giám loại 1.000 tấn của Trung Quốc, có chiều dài 79,9 m, chiều rộng 10,6 m, lượng giãn nước 1.330 tấn, tốc độ 20 hải lý/giờ, có thể di chuyển liên tục trên biển 5.000 hải lý.

Các hoạt động này tiếp tục thể hiện ý đồ của Bắc Kinh muốn độc chiếm Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng biện pháp tuần tra trái phép. 

Ngày 28/4 vừa qua, Trung Quốc đã điều thêm một giàn khoan bán ngầm nước sâu loại "khủng" là giàn khoan Hưng Vượng xuất phát từ Yên Đài để tới khu vực Biển Đông hoạt động.

Giàn khoan mới vào Biển Đông nguy hiểm hơn Hải Dương 981


Đây là giàn khoan thứ tư mà Tập đoàn đóng tàu CIMC Raffles chuyển giao cho Công ty Dịch vụ Dầu mỏ Trung Quốc (COSL-China Oilfield Services Ltd.) và là giàn khoan bán ngầm nước sâu thứ hai Bắc Kinh điều tới Biển Đông sau giàn khoan Hải Dương 981.

Ngày 30/4, Trung Quốc tuyên bố giàn khoan COSLProspector chính thức rời thành phố Yên Đài lên đường tới Biển Đông.
Hiện đại hơn giàn khoan Hải Dương 981
Công ty Dịch vụ Dầu mỏ Trung Quốc (COSL) đã nhận giàn khoan bán nổi COSLProspector (Hưng Vượng) này vào ngày  19/11/2014.
Giàn khoan COSLProspector được trang bị các công nghệ tiên tiến - trong đó có hệ thống định vị động (DP3), biến tần thông minh và rã đông tự động, với hệ thống khoan tiên tiến nhất thế giới.
Hệ thống định vị động DP3 được lắp đặt trên giàn khoan COSLProspector đáp ứng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất của Na Uy và Trung Quốc.

Giàn khoan mới vào Biển Đông nguy hiểm hơn Hải Dương 981
Giàn khoan COSLProspector được trang bị hệ thống định vị động (DP3) và hệ thống khoan tiên tiến nhất thế giới
 
So với các giàn khoan nửa nổi nửa chìm khác đã được bàn giao trước đó như COSLPioneer, COSLPromoter, COSLInnovator, giàn khoan COSLProspector có thể hoạt động trong môi trường băng giá. Nó có thể hoạt động hầu như khắp mọi nơi thế giới, trừ những khu vực có nhiệt độ dưới -20 độ C.
Giàn khoan COSLProspector đã trải qua tất cả các xét nghiệm và điều chỉnh cần thiết. Giàn khoan này được thiết kế để hoạt động khoan nước sâu ở Biển Đông trong nửa đầu năm 2015.
Giàn khoan COSLProspector hiện đại hơn Hải Dương 981 vì nó được trang bị hệ thống khoan tiên tiến nhất thế giới với hệ thống định vị động có thể bảo đảm cho giàn khoan này hoạt động bình thường trong bão cấp 12 ở Biển Đông.
COSLProspector là giàn khoan bán nổi thứ 7 do CIMC Raffles chế tạo. Hãng CIMC Raffles hiện đang đóng tiếp bốn giàn khoan bán nổi nữa và tất cả đều đáp ứng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất trên thế giới.
Giàn khoan này hoạt động ở độ sâu tối đa 1.500 m, độ sâu tối đa của giếng khoan là 7.600 m, nhân viên trên giàn khoan theo quy định là 130 người, tải trọng sàn tàu 5.000 tấn.
 
Giàn khoan mới vào Biển Đông nguy hiểm hơn Hải Dương 981
Hãng đóng tàu Raffles Yên Đài do công dân Singapore Brian Chang sáng lập, nhưng bị Trung Quốc thâu tóm năm 1993
Về hãng đóng tàu CIMC Raffles Yên Đài
CIMC Raffles Yên Đài là một hãng đóng tàu ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đại lục. Hãng đóng tàu này hiện do  CIMC Raffles Offshore Ltd điều hành.
Năm 1994, công dân Singapore Brian Chang đã thành lập Hãng đóng tàu Raffles Yên Đài nằm gần Nhật Bản và Hàn Quốc, một khu vực chiếm tới 80% công suất đóng tàu của toàn thế giới. Đây là hãng đóng tàu duy nhất ở Trung Quốc do người nước ngoài chiếm đa số cổ phần.
Tháng 3/2013, CIMC đã mua hết số cổ phần còn lại của CIMC Raffles Yên Đài và biến nó thành công ty con của  CIMC Offshore Holdings Co. Ltd.
Giàn khoan này từ khi ký hợp đồng đóng đến khi bàn giao chỉ mất có 35 tháng. Công ty CIMC Raffles có 9 giàn khoan nước sâu nửa chìm đã được đưa đến các vùng biển trên thế giới như Bắc Hải, Brazil, vịnh Mexico, Tây Phi để hoạt động.
Phó Tổng giám đốc CIMC Raffles là Vu Á cho rằng, giàn khoan COSLProspector gia nhập “tàu chủ lực” nước sâu cho thấy Yên Đài hoàn toàn có khả năng cung cấp giàn khoan nước sâu với số lượng lớn cho ngành dầu khí Trung Quốc.
Thông số kỹ thuật:
Dài: 104,5m; Rộng: 70,5m; Cao: 37,5m. Hoạt động ở vùng biển sâu đến 1.500m. Khoan sâu tối đa: 7.600m. Hoạt động ở nhiệt độ thấp nhất:  -20 độ C. Tải trọng sàn tối đa: 5000 tấn. Số nhân viên là việc trên giàn khoan: 130 người.

Trung Quốc đưa thêm giàn khoan nước sâu xuống Biển Đông


Sáng ngày 30/4, Trung Quốc đã đưa thêm một giàn khoan bán ngầm nước sâu xuống Biển Đông để hoạt động, Tân Hoa Xã đưa tin, nhưng không tiết lộ khu vực mà Trung Quốc sẽ cắm giàn khoan này.

Giàn khoan Hưng Vượng
Giàn khoan Hưng Vượng
Theo nguồn tin trên, vào 10h18 sáng qua, Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hưng Vượng (COSL Prospector) xuất phát từ cầu tàu của Tập đoàn đóng tàu CIMC Raffles thuộc khu vực biển Yên Đài, tỉnh Sơn Đông di chuyển xuống khu vực Biển Đông để khai thác dầu khí.
 
Đây là giàn khoan bán ngầm nước sâu thứ 2 của Trung quốc được đưa tới Biển Đông hoạt động (trước đó là giàn khoan Hải Dương-981). Giàn khoan Hưng Vượng có hệ thống định vị động lực đặc biệt, có thể bảo đảm hoạt động ở khu vực Biển Đông kể cả khi gió cấp 12.

Giàn khoan Hưng Vượng là giàn khoan bán ngầm nước sâu thứ 4 của Tập đoàn đóng tàu CIMC Raffles bàn giao cho Công ty dịch vụ mỏ dầu TQ (COSL).Gian khoan này có thể hoạt động với độ nước sâu tối đa khoảng 1.500 m, có thể khoan sâu nhất ở độ sâu 7.600 m, chở 130 nhân viên. Giàn khoan này được Tập đoàn đóng tàu CIMC Raffles chế tạo trong thời gian 35 tháng.

Tổng giám đốc Tập đoàn CIMC Raffles Vu Á cho biết việc giàn khoan Hưng Vượng gia nhập lực lượng chủ lực của Công ty dịch vụ mỏ dầu TQ (COSL) trong khai thác nước sâu đã cho thấy thành phố Yên Đài, tỉnh Sơn Đông hoàn toàn có năng lực chế tạo các giàn khoan khai thác vùng nước sâu ở khu vực Biển Đông.
 
Trước đó, vào đầu tháng 5/2014, Trung Quốc triển khai trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của Việt Nam và cộng đồng quốc tế.

Trung Quốc có thể xây đường băng trên bãi đá Xu Bi


Trung Quốc có thể đang chuẩn bị xây một đường băng trên bãi đá Xu Bi, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, trong bối cảnh hoạt động cải tạo đảo trên Biển Đông đang được Bắc Kinh tiến hành với tốc độ nhanh chưa từng thấy.

Hình ảnh chụp bãi đá Xu Bi từ vệ tinh ngày 6/2 (trái) và ngày 17/4 (phải). 
Hình ảnh chụp bãi đá Xu Bi từ vệ tinh ngày 6/2 (trái) và ngày 17/4 (phải). (Ảnh: ADSDG)

Tờ Diplomat mới đây đăng tải một số hình ảnh có độ phân giải cao chụp từ vệ tinh hôm 17/4 cho thấy chỉ trong 10 tuần, Trung Quốc đã xây dựng một hòn đảo trên bãi đá Xu Bi, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Tờ báo nhận định kích thước và hình dạng của dải đất mới xây phù hợp cho một đường băng dài 3.300 m, tương đương với độ dài đường băng mà Trung Quốc đang xây trên đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. 

Hình ảnh chụp đá Chữ Thập ngày 14/2 (trái) và 17/4 (phải). (Ảnh: 
Hình ảnh chụp đá Chữ Thập ngày 14/2 (trái) và 17/4 (phải). (Ảnh: ADSDG)

Các nhà phân tích quân sự nhận định đường băng dài 3.300 m gần như có thể hỗ trợ tất cả các loại chiến đấu cơ và máy bay hỗ trợ của hải quân và không quân Trung Quốc.

Nếu hình ảnh chụp ngày 6/2 trước đó cho thấy Bắc Kinh chỉ tiến hành hoạt động hút bùn đắp đất lên 2 khu vực nhỏ trên bãi đá Xu Bi, thì đến ngày 17/4, diện tích đắp đất tại đây tăng lên 2,27 km2. Diện tích này gần bằng hòn đảo ước tính rộng khoảng 2,65 km2 đang hình thành nhanh chóng trên bãi đá Chữ Thập. 

Hình ảnh vệ tinh chụp bãi đá 
Hình ảnh vệ tinh chụp bãi đá Xu Bi ngày 17/4. (Ảnh: ADSDG)

Tuy nhiên, Diplomat nhận định hoạt động xây dựng của Trung Quốc tại hai bãi đá Xu Bi và Chữ Thập có một điểm khác biệt đáng chú ý. Đó là trên bãi đá Chữ Thập có một cảng cỡ lớn cùng một đường băng/đường lăn đang hình thành. Trong khi hiện nay chưa có cơ sở hải quân nào xuất hiện trên bãi Xu Bi . 

Nhưng tại rìa phía nam của bãi đá Xu Bi, Trung Quốc đang mở rộng và gần hoàn thành một kênh đào, cho phép xây dựng một cầu cảng. Ngoài ra, hoạt động đắp đất liên tục ở phía nam Xu Bi có thể nhằm xây các bến cảng cho hải quân tập kết.
Hình ảnh chụp bãi đá Vành Khăn ngày 13/4. 
Hình ảnh chụp bãi đá Vành Khăn ngày 13/4. (Ảnh: ADSDG)

Ngoài ra, theo Diplomat, tại bãi đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành cải tạo đất nhanh chóng. Đến ngày 13/4, bãi đá được đắp cát và san hô, mở rộng diện tích lên 2,42 km2 dù trước đó vài tháng bãi đá này hoàn toàn ngập nước.

Hình ảnh vệ tinh ngày 13/4 chụp bãi đá Vành Khăn cho thấy có ít nhất 23 máy hút bùn đang hoạt động tại đây cùng ít nhất 24 tàu xây dựng trong vũng gần đó. Ngoài ra, tại địa điểm này còn có 28 xe trộn/vận chuyển bê tông và hàng chục xe tải lớn cùng máy xúc.

Hình ảnh vệ tinh ngày 13/4 chụp rìa bắc của bãi đá Vành Khăn. 
Hình ảnh vệ tinh ngày 13/4 chụp rìa bắc của bãi đá Vành Khăn. (Ảnh: ADSDG)

Trung Quốc cũng mở rộng đắp đất ở rìa phía bắc đá Vành Khăn để tạo một diện tích đủ rộng để xây đường băng hạ cánh dài hơn 3.000 m. Một vùng rộng ở phía nam bãi đá này đã được cải tạo chỉ trong vòng 8 tuần.

Các bãi đá Xu Bi, Vành Khăn, Chữ Thập là 3 trong số ít nhất 7 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam đang bị Trung Quốc cải tạo, được cho là nhằm phục vụ mục đích quân sự trong tương lai.

Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ diện tích khu vực Biển Đông giàu tài nguyên, chồng lấn lên vùng biển của các nước láng giềng trong đó có Việt Nam, Philippines và Malaysia.
 
Các nước ASEAN đã nhiều lần lên tiếng phản đối hành động phi pháp, ngang ngược của Bắc Kinh, trong khi Mỹ cũng từng kêu gọi Trung Quốc dừng các hành động cải tạo đảo, làm thay đổi hiện trạng trên Biển Đông.

"Mệnh lệnh không lời" với Cảnh sát biển


"Có những cơn bão trong khi bà con chạy vào bờ để tránh, thì lực lượng Cảnh sát biển (CSB) lại vươn ra ngoài bão để cứu ngư dân. Khi bà con gặp nạn, chúng tôi coi bà con như người thân để dốc sức tìm kiếm, cứu nạn", Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB chia sẻ.

Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB. (Ảnh: Đức Hạnh)
Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB. (Ảnh: Đức Hạnh)
Ông Hậu khẳng định, ngoài việc tuần tra, kiểm tra kiểm soát, duy trì việc thực thi pháp luật trên biển, thì từ Bộ tư lệnh CSB tới Bộ tư lệnh các vùng, các cụm đặc nhiệm trong toàn lực lượng đều xác định nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển chính là mệnh lệnh không lời.
Vị Phó Chủ nhiệm chính trị kể lại một kỷ niệm khó quên khi cứu tàu của ngư dân Trần Văn Tình ở Cà Mau.
"Trên tàu khi ấy có 17 thuyền viên, tàu ở gần khu vực biển của Campuchia lúc quay về thì gặp bão cấp 9, cấp 10, mạn thuyền bị sóng to đập vỡ.
Nhận được tin báo, chúng tôi triển khai ngay lực lượng ra cứu bà con. Nhưng sóng rất to, nếu tàu CSB cập gần có thể khiến tàu ngư dân bị chìm. Anh em trên tàu CSB đã bất chấp nguy hiểm, mặc áo phao nhảy xuống biển, cầm dây nối với tàu ngư dân, rồi chuyển từng người sang tàu CSB. Sau đó, anh em còn dùng máy bơm hút nước để tàu ngư dân không bị chìm. Kết quả là 17 thuyền viên đã sang được tàu CSB an toàn, tàu vừa chạy vừa kéo con tàu ngư dân gặp nạn cập cảng an toàn. Tính mạng và tài sản ngư dân được đảm bảo".
Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB. (Ảnh: Đức Hạnh)
Tiếp cận kiểm tra tàu cá Trung Quốc trong khuôn khổ tuần tra liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc tháng 4/2015. (Ảnh: TA)
Quả thật, ra đến biển mới thấy đại dương mênh mông. Đứng trên tàu 8001 - con tàu hiện đại nhất của lực lượng CSB Việt Nam tính đến thời điểm này có trọng tải 2.200 tấn - nhìn về phía sau là tàu 8003 trọng tải 1.400 tấn cũng chỉ thấy con tàu như một đốm trắng trên biển. Nói gì tới tàu đánh bắt của ngư dân với trọng tải thông thường chỉ hơn 100 tấn. Những con tàu ấy gặp sóng to gió lớn chỉ giống như chiếc lá tre nhỏ xíu, bị cột sóng cao che lấp, nhiều khi chỉ nhìn thấy đúng mũi tàu.
"Những lúc ra khơi biển động, chỉ cần thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên mỗi con tàu của ngư dân, chúng tôi đều cảm thấy phải có sứ mệnh đảm bảo vùng biển bình yên để bà con yên tâm bám biển, bám ngư trường. Bà con đã trở thành động lực thôi thúc chúng tôi thực thi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn thách thức", Đại tá Trần Văn Hậu cho biết.
Ông kể, có lần tàu CSB ra Trường Sa, bà con ngư dân thoạt đầu nhìn thấy tàu lạ thì bỏ chạy, về sau biết là tàu CSB thì mừng lắm. Có ngư dân còn nói: "Thấy tàu các chú, chúng tôi vui khôn xiết, không phải lo ngại tàu lạ nữa".
"Đồng hành với chúng tôi luôn có ngư dân, bà con đóng vai trò to lớn trong xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên biển. Mỗi tổ đội đánh bắt của ngư dân ở những ngư trường truyền thống giống như làng bản trên đất liền. Khi họ xuất hiện với những lá cờ trên tàu, họ giống như cột mốc di chuyển trên biển, khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng bất khả xâm phạm. Ngư dân giống như con mắt tiền tiêu, những trinh sát viên cung cấp cho CSB và các lực lượng khác khác trong việc duy trì thực thi pháp luật trên biển có được thông tin nhanh nhất về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển", ông Hậu nhấn mạnh.
Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB. (Ảnh: Đức Hạnh)
Ngoài nhiệm vụ tuần tra, duy trì thực thi pháp luật trên biển, lực lượng CSB còn tăng cường công tác tuyên truyền, nhắc nhở bà con ngư dân. Trong những chuyến tuần tra thông thường, cán bộ chiến sĩ CSB đã tới từng ô tàu của ngư dân, phát tờ rơi, thông tin ngư dân cần biết, bản đồ về phạm vi được phép đánh bắt, giúp bà con hạn chế vi phạm trên các vùng biển.
"So với trước đây, bà con đã yên tâm bám biển nhiều hơn, vươn khơi xa hơn. Do trang bị trên một số tàu còn chưa hiện đại, chưa xác định được vị trí chính xác được phép đánh bắt nên bà con còn e ngại đi vào những vùng biển chưa nắm rõ phạm vi được phép hoạt động. Ngư dân đã rất hợp tác và háo hức tham gia các buổi tuyên truyền của CSB. Chúng tôi chủ yếu nhắc nhở bà con xem xét trang thiết bị còn thiếu trên tàu như phao cứu sinh - nếu thiếu chúng tôi cấp phát thêm - hay thiết bị phòng chống tràn dầu, giấy tờ tùy thân. Tuy nhiên, chúng tôi cương quyết xử phạt các tàu ngư dân dùng thuốc nổ đánh bắt thủy hải sản, làm ảnh hưởng tới môi trường biển", ông Hậu khẳng định.
Nhờ có sự hiện diện của CSB mà ngư dân yên tâm hơn bám biển vươn khơi. (Ảnh: TA)
Nhờ có sự hiện diện của CSB mà ngư dân yên tâm hơn bám biển vươn khơi. (Ảnh: TA)
Nơi biển xa, nếu mỗi ngư dân, mỗi tàu thuyền đánh bắt là một "cột mốc sống" thì lực lượng CSB cũng giống như một cột mốc, một chỗ dựa vững chắc để ngư dân yên tâm hoạt động có hiệu quả, đúng pháp luật. Họ cũng là một cột mốc đảm bảo lợi ích hợp pháp quốc gia trên biển.

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

Tham vọng chiếm lĩnh khu vực biển sâu của Trung Quốc


Ngày 18-4, lần đầu tiên, mô hình “cá Cầu vồng” – thiết bị lặn chở người khu vực biển sâu của Trung Quốc đã được ra mắt công chúng. Đồng thời với đó, con tàu mẹ chở nó cũng chính thức được khởi đóng. 

 Mô hình thiết bị lặn chở người “cá Cầu vồng”
 Mô hình thiết bị lặn chở người “cá Cầu vồng”

Sau khi thiết bị lặn “cá Cầu vồng” được trình làng, cùng ngày trường Đại học Hải dương Thượng Hải  đã tổ chức lễ khởi công đóng tàu mẹ khảo sát khoa học “Trương Kiến” (tàu chở thiết bị lặn “cá Cầu vồng”) và thành lập phòng thí nghiệm khoa học công nghệ khu vực nước sâu lưu động.

Theo Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu khoa học Khu vực nước sâu của trường Đại học Hải dương Thượng Hải – Thôi Duy Thành thì tàu “Trương Kiến” sẽ được tích hợp 3 công năng chính đó là: Vận tải thiết bị lặn có người lái, khảo sát tổng hợp khoa học viễn dương và hỗ trợ tác nghiệp công trình khu vực biển nước sâu. Tàu được đóng và thiết kế mang tính đột phá.

Sau khi hạ thuỷ nó sẽ chịu trách nhiệm mang thiết bị lặn sâu 11.000m – “cá Cầu vồng” và hàng loạt thiết bị khảo sát khoa học khác, cũng như đảm trách nhiệm vụ điều tra nghiên cứu khoa học ở khu vực biển nước sâu.

Ngoài ra, tàu mẹ này còn triển khai các công tác điều tra nghiên cứu khoa học hải dương mang tính thông thường, các loại công trình ở khu vực nước sâu và kiêm luôn cả công năng cứu hộ các sự cố hải dương, trục vớt khảo cổ dưới nước, quay phim chụp ảnh cũng như phục vụ thám hiểm và thăm quan hải dương.

Tàu “Trương Kiến” do Công ty TNHH cổ phần khoa học kỹ thuật tàu khảo cổ cá Cầu vồng Thượng Hải đầu tư, Công ty TNHH đóng tàu Thiên Thời Triết Giang đóng. Tàu có độ giãn nước 4800 tấn, dài 97m, rộng 17,8m, sâu 8,4m, độ mớm nước 5,65m, tốc độ hành trình 12 hải lý/h, thuỷ thủ đoàn 60 người. Tàu này có khả năng hành trình liên tục 60 ngày với 15000 hải lý.

Thiết bị lặn “cá Cầu vồng” sẽ kết hợp với tàu mẹ khảo sát khoa học chuyên dụng “Trương Kiến” tạo thành một “Phòng thực nghiệm khoa học kỹ thuật khu vực nước sâu lưu động”, để Trung Quốc thực hiện tham vọng chiếm lĩnh đỉnh cao về trình độ nghiên cứu khoa học cũng như khai thác ở khu vực biển nước sâu.

Dự kiến tàu “Trương Kiến” sẽ được hạ thuỷ vào ngày 1-3-2016, tiến hành chạy thử vào ngày 30-5 và được đưa vào bàn giao sử dụng vào ngày 30-6 cùng năm.

Đằng sau động thái triển khai tàu ngầm để chống hải tặc của Trung Quốc


Trung Quốc đã triển khai tàu ngầm cho chiến dịch chống hải tặc ở Ấn Độ Dương, mặc dù loại tàu này hoàn toàn không thích hợp cho các sứ mệnh như vậy. Vì sao Trung Quốc lại làm điều tưởng như nghịch lý này?

Tàu ngầm Trung Quốc (Ảnh minh họa:
Tàu ngầm Trung Quốc (Ảnh minh họa: Diplomat)
Việc Trung Quốc triển khai một tàu ngầm hạt nhân - được cho là một chiếc Type 093 lớp Shang - cho nhóm tuần tra chống hải tặc gồm 2 tàu và một tàu cung ứng hoạt động ngoài khơi Vịnh Aden đã khiến hải quân Ấn Độ lo ngại, tờ The Diplomat đưa tin. Khi tìm hiểu nguyên nhân thật sự của việc triển khai tàu ngầm trong khu vực, các nhà phân tích cho rằng các hàm ý của một động thái mang tầm quan trọng chiến lược như vậy là rất lớn.

Tàu ngầm không phải phương tiện thích hợp để đối với phó với hải tặc. Cướp biển Somali được biết tới là thường sử dụng tác tàu nhỏ để tấn công các tàu hàng, rồi quay trở lại các tàu mẹ lớn hơn gần đó. Điều này cho phép hải tặc có tầm hoạt động xa hơn.
Các tàu nhỏ có khả năng cơ động cao như vậy khó bị truy đuổi bởi tàu ngầm di chuyển tương đối chậm hoặc bị phóng ngư lôi từ dưới biển, khiến tàu ngầm trở nên vô dụng trong các chiến dịch chống hải tặc. Hơn nữa, tại một khu vực nơi các vụ tấn công của hải tặc đã giảm đáng kể và hải quân các nước khác đang giảm sự hiện diện, Trung Quốc lại tăng cường sức mạnh tuần tra.
 
Trung Quốc đã thực hiện các cuộc triển khai độc lập để chống hải tặc, chủ yếu tại Vịnh Aden từ năm 2008 và có vẻ là vì lợi ích chung. Kể từ khi các cuộc tuần tra cần sự phối hợp, Trung Quốc đã hợp tác chặt chẽ với hải quân Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc, mặc dù họ họa động độc lập.
 
Tuy nhiên, việc triển khai tàu ngầm hạt nhân từ tháng 13/12/2014 đến 14/2/2015 cùng với đội tàu của hải quân Trung Quôc là chưa có tiền lệ và gây ra những nghi vấn về ý định thực sự của Bắc Kinh.
 
Hải quân Ấn Độ đã thông báo với chính phủ nước này rằng Trung Quốc có thể tiến hành các cuộc thảo sát dưới nước trong vùng ven biển phía tây Ấn Độ, khi nhóm này cũng có hỗ trợ của một tàu nghiên cứu có khả năng vẽ bản đồ đáy biển. Nhưng hải quân Ấn Độ cũng thừa nhận rằng các tàu Trung Quốc không vào lãnh hải Ấn Độ.
 
Do đó, Trung Quốc có thể có nhiều lý do cho việc triển khai tàu ngầm.
 
Trước tiên, sáng kiến của Trung Quốc nhằm triển khai các tàu dưới vỏ bọc của các cuộc tuần tra chống hải tặc là một thành công khi tàu có thể hoạt động với thời gian dài ở các vùng biển xa, và quan trọng hơn là bên trong khu vực sân sau chiến lược của Ấn Độ. Cùng lúc đó, Trung Quốc đã cho thấy khả năng hợp tác với các hải quân đối thủ như Nhật Bản và Ấn Độ, giúp Bắc Kinh có thể đánh giá hải quân của các nước này (và ngược lại).
 
Thứ 2, việc triển khai tàu ngầm đã gửi đi một thông điệp quan trọng, đặc biệt là đối với an ninh của Ấn Độ, Thông điệp là hải quân Trung Quốc giờ đây có khả năng hoạt động cách xa căn cứ hàng nghìn km trong thời gian ấn tượng lên tới 7 tháng.
 
Thứ 3, các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc như lớp Xia bị hạn chế về khả năng hoạt động bên ngoài các vùng nước nông, thậm chí trong thời gian ngắn. Nhưng các tàu ngầm lớp Shang và Jin mới khá ưu việt về công nghệ và cuộc triển khai đã cho thấy điều đó. Như vậy, Trung Quốc đã tái khẳng định khả năng nhằm chế tạo các tàu ngầm công nghệ cao, cùng với khả năng triển khai sức mạnh và chứng tỏ khả năng hoạt động ở các vùng biển xa.
 
Thứ 4, việc hoạt động thường xuyên ở Ấn Độ Dương sẽ cho phép Trung Quốc hiểu hơn về các điều kiện thủy văn trong khu vực, tạo thuận lợi cho các cuộc triển khai dưới nước về sau này.
 
Cuối cùng là, trong khi hải quân các nước khác trong khu vực đang tìm cách giảm sự hiện diện trong các chiến dịch tuần tra chống hải tặc vì sức ép tài chính và số lượng các vụ tấn công của hải tặc giảm trong khu vực, Trung Quốc lại không chỉ duy trì sức mạnh mà còn tăng cường nhiều lần. Lý do có lý nhất cho điều đó là khiến các tàu, các tàu ngầm và thủy thủ Trung Quốc có cảm giác duy trì liên tục trong khu vực, có thể báo hiệu các cuộc triển khai thường xuyên trong tương lai gần. Do đó, không phải là không có lý khi nói rằng cả Vịnh Bengal và Biển A-rập sẽ thành các khu vực hoạt động thường xuyên của tàu ngầm Trung Quốc, vốn có thể nằm chờ tại các vị trí quan trọng ngoài khơi các cảng của Ấn Độ để chống lại hạm đội nước này trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
 
Rõ ràng là, Ấn Độ có một láng giềng hàng hải mới, Trung Quốc. Bắc Kinh đã cho thấy khả năng hoạt động gần các vùng biển Ấn Độ và trong khu vực Ấn Độ Dương. New Delhi đã sơ suất không chú ý tới mối đe dọa tiềm tàng này.

Từ Biển Đông luận về chữ tín


Không còn là đồn đại hay cáo giác một chiều của một vài nước nữa mà là công bố chính thức từ người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc. 

Từ Biển Đông luận về chữ tín
Một bức ảnh chụp từ trên cao cho thấy Trung Quốc đang thực hiện công tác cải tạo phi pháp trên bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. (Ảnh:AFP)
 
Khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh ngày 9/4 tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng các hoạt động cải tạo đất và xây dựng tại quần đảo Trường Sa trên Biển Đông "là cần thiết do rủi ro từ những cơn bão gây ra với nhiều tuyến hàng hải xa đất liền" và nhằm "đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự" của Trung Quốc, thì đó là lần đầu tiên Trung Quốc công khai mục đích quân sự của hoạt động thay đổi nguyên trạng trên Biển Đông mà họ đang khẩn trương tiến hành và làm cho các nước càng thêm lo ngại trước ý đồ độc chiếm Biển Đông của nước này.
 
Cho dù người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc có giải thích rằng "chúng tôi đang xây dựng nơi trú ẩn, hỗ trợ điều hướng, tìm kiếm và cứu hộ, dịch vụ dự báo khí tượng hàng hải, dịch vụ nghề cá cùng thủ tục hành chính cần thiết cho Trung Quốc, các nước láng giềng cũng như chính các tàu" (đang hoạt động trên Biển Đông), thì hành động này cũng đã phá vỡ yêu cầu giữ nguyên trạng ở khu vực tranh chấp này mà chính Trung Quốc đã cùng các nước ASEAN giao ước trong Tuyên bố về ứng xử giữa các bên trên Biển Đông (DOC) ký kết tại Phnom Penh 12/2002.
 
Mặt khác, nếu quả thực vì lo cho cái chung của các nước, thì ý định này cũng nên được bàn bạc đầy đủ với các bên liên quan chứ không theo kiểu độc tôn, một mình một chợ như thể đang là chủ nhân duy nhất của cả Biển Đông, thậm chí của cả lãnh thổ của các nước khác, trong đó có Việt Nam.
 
Một ý định có vẻ hiền hòa phục vụ cái chung như thế đã là độc chiếm rồi, huống hồ là còn để "đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự" của Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, không thể không nhận ra rằng cái lý do "xây dựng nơi trú ẩn, hỗ trợ điều hướng, tìm kiếm và cứu hộ..." chỉ là cái bình phong để che chắn cho cái mục tiêu bành trướng "đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự".
 
Không rõ tự bao giờ và trên cơ sở công nhận quốc tế nào mà nay người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại giải thích rằng tuyến phòng thủ của Trung Quốc lại ra tới tận Trường Sa và rằng việc xây dựng này "không ảnh hưởng và không nhằm chống lại bất kỳ nước nào", chứ không phải là ở đảo Hải Nam, mà như tên gọi của đảo này cũng như các bản đồ cùng văn kiện lịch sử đến cuối thế kỷ XIX, đã có nghĩa đây là điểm cực nam trên biển của Trung Quốc. Không rõ dựa trên tham khảo nào mà lại có thể nói được rằng việc lấn chiếm và xây dựng bồi đắp này "không ảnh hưởng... tới bất cứ nước nào".
 
Tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc làm cho dư luận càng thêm lo ngại về sự thiếu nhất quán giữa những cam kết của Trung Quốc với các nước ASEAN về giữ gìn hòa bình và ổn định trên Biển Đông và hành động thực tế của họ trên Biển Đông hiện nay.
 
Chúng ta kiên quyết phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc phải chấm dứt ngay việc thay đổi hiện trạng trên Biển Đông, thực hiện nghiêm túc DOC và cùng các nước ASEAN khẩn trương ký kết và thực hiện COC, tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ, vì hòa bình và ổn định trên Biển Đông chính là lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực tại trung tâm hàng hải của khu vực Đông Nam Á và quốc tế này.
Thiết tưởng, để thực sự là hữu nghị, hãy nên tôn trọng chính những gì đã ký kết, đã tuyên bố, đúng với tinh thần "Tử viết: Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã " (Tạm dịch: Khổng Tử nói: Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc !)

Xây dựng kênh đào Kra lớn nhất Châu Á: Dự án đầy tham vọng


Sau nhiều năm tạm ngừng, mới đây Trung Quốc đã chính thức khởi động lại dự án xây dựng kênh đào nhân tạo lớn nhất khu vực Châu Á mang tên Kra - đi qua eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan. 

Vị trí dự kiến của kênh đào đi qua eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan (Ảnh:
Vị trí dự kiến của kênh đào đi qua eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan (Ảnh: China Daily Mail)
Theo kế hoạch vừa được thông qua, Trung Quốc sẽ tiến hành nghiên cứu khả thi dự án trong một năm trước khi đưa ra các quyết định khác.

Thái Lan đã có ý định xây dựng kênh đào Kra từ khá lâu. Tuy nhiên, cách đây 10 năm, các công ty của Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ vấn đề này nhưng không đưa ra kết quả cụ thể nào. Năm ngoái, báo chí Trung Quốc đưa tin Công ty LiuGong Machinery - XCMG và Công ty Công nghiệp nặng Sany chuẩn bị triển khai dự án nhưng sau đó hai công ty trên đều lên tiếng bác bỏ thông tin này. 

Theo quan điểm của Bắc Kinh, dự án nằm trong khuôn khổ khái niệm "Con đường tơ lụa hàng hải" do Chủ tịch Tập Cận Bình khởi xướng. Các chuyên gia phân tích cho rằng, sở dĩ Trung Quốc quan tâm nhiều đến dự án là do những căng thẳng với một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông cùng với sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực. Trong trường hợp eo biển Malacca bị đóng do căng thẳng gia tăng, kênh đào Kra sẽ là mạch giao thông sống còn cho việc vận chuyển dầu khí nhập khẩu về Trung Quốc.

Nằm ở eo đất Kra thuộc miền Nam Thái Lan, kênh Kra dự kiến được xây dựng với chiều dài 100km, nối liền Ấn Độ Dương và vịnh Thái Lan. Với kinh phí khoảng 25 tỷ USD, sau khi hoàn thành, đây sẽ là kênh đào nhân tạo lớn nhất Châu Á. Dự kiến sau khi đi vào hoạt động, trao đổi thương mại của khu vực ASEAN và các nước trên thế giới sẽ không thông qua vịnh Malacca mà thay vào đó là kênh Kra với tuyến hành trình được rút ngắn hơn 1.000km so với tuyến đường đi qua eo biển Malacca ngoài khơi bờ biển phía Nam của Malaysia. Bởi Thái Lan nằm ở vị trí chiến lược của khu vực ASEAN, cửa ngõ quan trọng nối với lưu vực sông Mekong và Nam Á. Điều này sẽ giúp tiết kiệm không chỉ thời gian mà còn cả chi phí vận chuyển trong việc trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc với ASEAN.

Ngoài Trung Quốc, Nhật Bản, thậm chí các nền kinh tế trên thế giới cũng sẽ được hưởng lợi từ kênh đào này, trong đó Thái Lan đương nhiên sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất trong khối ASEAN. Không chỉ có quyền sử dụng kênh đào chiến lược, tác động kích thích tăng trưởng kinh tế của dự án sẽ đem lại ngay từ lúc khởi động công trình. Hơn nữa, Thái Lan còn dự tính mở các đặc khu kinh tế và các khu công nghiệp ngay chính lối vào và lối ra con kênh, đặt trọng tâm vào công nghiệp dầu khí. Một quốc gia nữa cũng sẽ được hưởng lợi từ dự án là Myanmar. Đến nay để xuất khẩu hàng hóa, Myanmar buộc phải đi đường vòng xuống phía Nam qua eo biển Malacca, trong khi quốc gia này lại nằm rất gần với kênh Kra. Ngược lại, có thể Malaysia, Singapore và ngay cả Indonesia sẽ bị mất quyền lợi nếu kênh Kra được hình thành, bởi lưu thông hàng hải trên vùng lãnh hải của họ chắc chắn sẽ bị giảm xuống.

Trung Quốc sẽ mất một năm để nghiên cứu tính khả thi của dự án đầy tham vọng trên. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, Thái Lan cũng đang cân nhắc việc có để cho các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư hay không. Kinh nghiệm từ các dự án đường sắt cho Thái Lan thấy rằng, việc xích lại gần với Bắc Kinh về mặt kinh tế cũng có những điểm cần suy tính. Những khoản tín dụng do các ngân hàng Trung Quốc tài trợ các dự án đường sắt tại Thái Lan có lãi suất 4%/năm, cao hơn lãi suất chung của các quốc gia như Nhật Bản dành cho những dự án tương tự. Đó là chưa kể đại bộ phận nhân công tại các công trường có chủ đầu tư Trung Quốc tại Thái Lan sẽ là người Trung Quốc. Vì thế, Bangkok đã từ chối vay tiền của Trung Quốc cho các dự án đường sắt. Trong dự án xây dựng kênh Kra này, Chính phủ Thái Lan sẽ phải cân nhắc nhiều hơn trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.

Vạch bản chất Con đường Tơ lụa Trung Quốc trên biển



Chương trình hơn 140 tỷ USD mang tên “Một vành đai, một con đường” của Trung Quốc đang đối mặt với những thách thức.

Tờ TTXVN cho biết, thách thức này gồm các vấn đề chiến tranh, tranh chấp lãnh thổ và tình hình phức tạp trong nước.

Đây là chương trình tìm cách nối kết hơn 20 nước với tên "Con đường Tơ lụa" dựa trên một kế hoạch quy mô nhắm tới việc nới rộng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc bằng cách thiết lập hai tuyến ngoại thương lớn.

Vạch bản chất Con đường Tơ lụa Trung Quốc trên biển
Một tuyến khác của "Con đường tơ lụa" trên biển để nối các hải cảng của Trung Quốc với những trung tâm thương mại ven biển ở châu Phi và Trung Đông
Theo kế hoạch, một tuyến trên bộ trải dài từ Trung Quốc xuyên qua Trung Á để tới châu Âu, đi qua nhiều quốc gia đang mong mỏi có thêm nhiều lựa chọn thương mại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Một tuyến khác trên biển để nối các hải cảng của Trung Quốc với những trung tâm thương mại ven biển ở châu Phi và Trung Đông.

Đối với nhiều nước dọc theo con đường này, những tham vọng của Trung Quốc có thể mang lại một sức đẩy kinh tế mà những nước này đang trông đợi.

Tuy nhiên, dự án có nhiều tham vọng và có thể tạo ra những ảnh hưởng to lớn này cũng sẽ dễ bị vướng mắc vào những vụ tranh chấp ở nước ngoài mà Trung Quốc lâu nay vẫn thường ra sức né tránh.

Ông Diêu Bồi Sinh, người từng giữ chức Đại sứ Trung Quốc tại các nước Kyrgyzstan, Latvia, Kazakhstan và Ukraine, cho rằng: “Nếu tranh chấp lãnh thổ không được giải quyết, nó sẽ gây thiệt hại cho chương trình ‘Một vành đai, một con đường’. Nếu hai nước láng giềng có xung đột với nhau, sẽ không có tiến bộ.

Mưu đồ

Nhiều chuyên gia quốc tế cũng từgg lên tiếng phản đối về 'Con đường tơ lụa' trên biển mà giới chuyên môn cho rằngTrung Quốc đang tìm cách che giấu ý định bằng tuyên bố muốn xây dựng Con đường tơ lụa trên biển của thế kỷ 21 nhằm cải tthiện giao thương và trao đổi văn hóa.

Trước đó tờ The Wall Street Journal của Mỹ dẫn lời giới quan sát chỉ rõ ý đồ chính trị của Trung Quốc trong các kế hoạch khảo cổ dưới nước. Lâu nay, Bắc Kinh chỉ dựa vào những “bằng chứng lịch sử” vô cùng mơ hồ để tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Do đó, hoạt động “lục lọi” dưới đáy biển vừa nhằm để tìm thêm “bằng chứng”, vừa để tiếp tục đẩy mạnh hiện diện tại các khu vực tranh chấp.

Theo Robert Kaplan, nhà nghiên cứu chiến lược hàng đầu của Mỹ, từng dự báo cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ 21 sẽ diễn ra trên biển. Dự án con đường tơ lụa (MSR) trên biển sẽ đảm bảo các điều kiện hậu cần và an ninh cho việc vận chuyển hàng, đảm bảo nguồn cung dầu thô cho Trung Quốc.

Hệ thống cảng biển dọc MSR sẽ cho phép lực lượng hải quân Trung Quốc vượt ra khỏi những hạn chế địa lý của chuỗi đảo phía Tây Thái Bình Dương và áp lực quân sự từ chính sách tái cân bằng của Mỹ.

"Nó tạo “danh chính, ngôn thuận” và điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện của hải quân Trung Quốc ra các vùng biển ngoài Trung Quốc, trước hết là khu vực Biển Đông, eo biển Malacca, từ Biển Đông vươn sang Ấn Độ Dương, giúp cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng trên biển và tăng cường hiện diện quân sự trên biển. Cái đích là Ấn Độ Dương – vì Trung Quốc muốn thành cường quốc toàn cầu, trước hết phải đặt chân vững chắc tại Ấn Độ Dương", Robert Kaplan phân tích.

Âm mưu biển Đông của Trung Quốc: Những nguồn lợi ngoài dầu khí


Biển Đông của Việt Nam là một vùng biển quan trọng, có vị thế chiến lược với toàn thế giới. Tham vọng trên biển Đông của Trung Quốc xét dưới góc độ kinh tế không đơn thuần là câu chuyện giàn khoan và dầu khí.

Chính điều này đã đánh động toàn thế giới qua những xung đột trên biển Đông vừa qua.
Luồng hàng hải và năng lượng tương lai

Thông tin mới nhất cho thấy, Trung Quốc lại áp lệnh cấm đánh bắt cá đối với các tàu cá trong nước và nước ngoài tại một số khu vực trên biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa của Việt Nam, trong vòng 2 tháng rưỡi bắt đầu từ 15/5.

Đây là hành động tiếp theo sau hàng loạt những động thái không thể chấp nhận trên Biển Đông bắt đầu từ việc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng 5 vừa qua.

Bên cạnh giàn khoan khổng lồ nặng hàng chục nghìn tấn đưa vào vùng biển của Việt Nam, Trung Quốc cũng đang nâng dần số lượng các loại tàu các loại từ con số 80 lên trên 130 tàu, bao quanh khu vực mà Hải Dương 981 đang neo đậu.

Tuy nhiên, đây dường như chỉ là bước đi đầu tiên trong âm mưu lâu dài của Trung Quốc là chiếm Biển Đông với một tham vọng đã được vạch ra từ trước đó với một cái tên gọi là "đường lưỡi bò", 'liếm' 2/3 diện tích Biển Đông.

Nhìn vào vị trí đặt Hải Dương 981, những nhà hàng hải có kinh nghiệm trên thế giới cho biết, đây là cổ họng của một trong 2 tuyến đường huyết mạch trên Biển Đông hướng Bắc-Nam mà tàu bè quốc tế buộc phải đi qua nếu muốn tới các nước trong khu vực hoặc giao thương, vận chuyển dầu mỏ trên thế giới.

Trung Quốc đặt giàn khoan khổng lồ nặng hàng chục nghìn tấn đưa vào vùng biển của Việt Nam
Trung Quốc đặt giàn khoan khổng lồ nặng hàng chục nghìn tấn đưa vào vùng biển của Việt Nam

Trên Biển Đông không phải chỗ nào cũng đi được. Ở giữa là đá ngầm do vậy hàng hải quốc tế qua khu vực buộc phải theo 2 hướng, một là men dọc theo bờ biển Việt Nam, hai là tuyến gần sát với Phillippines. Trung Quốc đã đặt Hải Dương981 nằm giữa tuyến qua vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

"Thời điểm đặt Hải Dương 981 cũng đã được lựa chọn rất kỹ không chỉ dựa trên biến động chính trị, những thay đổi tương quan lực lượng trên trên thế giới mà còn bởi vào thời gian từ tháng 4-7, tàu thuyền xuất phát từ phía Bắc xuống phía Nam có thể chọn tuyến gần sát Philippines thay thế tuyến men dọc theo bờ biển Việt Nam bởi cường độ dòng hải lưu chảy từ Nam lên phía Bắc ở đó thấp hơn. Khoảng tháng 8 trở đi, số lượng tàu hàng từ phía Bắc xuống Ấn Độ Dương trên tuyến này nhiều hơn, và do đó những căng thẳng có thể sẽ khiến giao thương của hàng hóa bị ảnh hưởng".

Không chỉ "tìm đường ra biển", một trong những mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là "đốt cháy" Biển Đông chuẩn bị cho cơn khát năng lượng vốn đã rập rình từ lâu.

Theo đánh giá của Mỹ, trữ lượng dầu ở Biển Đông khá thấp khoảng nhưng Trung Quốc cho rằng trữ lượng tại đây lớn hơn nhiều. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng băng cháy (khí hydrat metan đóng băng). Trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần.

Đánh động thế giới

Nỗi ám ảnh rất lớn và thường trực của Trung Quốc trong hàng chục năm qua là cơn khát dầu khí và nỗi lo tìm đường ra biển. Tuyên bố xoay trục sang châu Á của Tổng thống Mỹ Obama khiến nỗi lo của Trung Quốc trở thành hiện thực.

Trung Quốc đặt giàn khoan khổng lồ nặng hàng chục nghìn tấn đưa vào vùng biển của Việt Nam
Tham vọng trên biển Đông của Trung Quốc xét dưới góc độ kinh tế không đơn thuần là câu chuyện giàn khoan và dầu khí

Tiềm năng dầu khí, năng lượng chưa được khai thác và vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông hàng hải quốc tế được coi là nhân tố quyết định khiến tham vọng chiếm Biển Đông của Trung Quốc lớn hơn bao giờ hết.

Xét kỹ hơn về khía cạnh hàng hải, có thể thấy, 2 tuyến nói trên là đường vận chuyển dầu mỏ chính từ Trung Đông về Đông Bắc Á và nhất là về Trung Quốc. Đây cũng là huyết mạch hàng hải quốc tế từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương.

Gần đây, Trung Quốc đã triển khai chính sách đa dạng hóa nguồn cung nhiên liệu, trong đó có tuyến đường ống dẫn dầu qua Myanmar. Tuy nhiên, tuyến đường này cũng có nhiều vấn đề và việc thay thế tuyến vận chuyển trên biển gần như không thể. Lượng dầu thô nhập khẩu trên tuyến đường hàng hải qua các eo biển Malaca và Singapore chiếm tỷ trọng rất lớn trong thời gian gần đây.

Những kế hoạch đẩy mạnh hợp tác với Nga với chuyên viếng thăm lịch sử của Tổng thống Nga Putin hôm 20/5, trong đó có thỏa thuận mua bán dầu khí có lẽ cũng nằm trong chính sách đa dạng hóa nguồn cung năng lượng.

Có thể thấy, Trung Quốc đang chớp thời cơ trật tự thế giới đang có sự thay đổi để đánh động thế giới về tham vọng khống chế và tiến tới độc chiếm một trong những tuyến đường biển quan trọng nhất trên thế giới và sống còn đối với Trung Quốc.

Có lẽ cũng nằm trong kế hoạch "làm chủ" tuyến hàng hải này, Trung Quốc gần đây cũng tuyên bố sẽ xây kênh đào nhân tạo lớn nhất châu Á với tên tạm gọi là kênh Kra, qua eo đất Kra ở Nam Thái Lan dài 100km, nối liền Ấn Độ Dương và vịnh Thái Lan.

Nếu kênh Kra thành hiện thực trao đổi thương mại giữa ASEAN, Trung Quốc với các nước trên thế giới sẽ không thông qua vịnh Malacca và Singapore nữa, mà thay vào đó là qua kênh Kra với tuyến hành trình được rút ngắn khoảng 1-2 ngày, tiết kiệm cho mỗi tàu 5.000-50.000 USD/chuyến.

Trung Quốc nói gì về chỉ trích của G7?


Dân trí Trung Quốc đã bác bỏ những chỉ trích của các ngoại trưởng G7 về tranh chấp hàng hải, báo chí nhà nước Trung Quốc ngày 18/4 đưa tin, sau khi các bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây dựng đường băng trái phép trên một hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông. 

Một bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây dựng một đường băng tại bãi Chữ Thập (Ảnh:
Một bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây dựng một đường băng trái phép tại bãi Chữ Thập (Ảnh: AFP)
"Chúng tôi hi vọng các quốc gia liên quan tôn trọng nỗ lực của các nước trong khu vực để duy trì hòa bình và sự ổn định và hành động nhiều hơn nữa vì điều đó", người phát ngôn Bộ ngoại giao Hồng Lỗi nói trong cuộc họp báo ngày 18/4.
Các ngoại trưởng G7 gồm Đức, Nhật, Anh, Mỹ, Canada, Pháp và Ý ngày 15/4 đã bày tỏ lo ngại về "mọi hành động đơn phương như cải tạo đất quy mô lớn, vốn làm thay đổi hiện trạng và gia tăng căng thẳng" ở Biển Đông và Hoa Đông.
"Chúng tôi kịch liệt phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đòi hỏi các tuyên bố chủ quyền hoặc hàng hải thông qua sử dụng sự ép buộc, hăm dọa hoặc vũ lực", tuyên bố chung của khối G7 viết.
Tuyên bố trên diễn ra trong bối cảnh các bức ảnh vệ tinh chụp ngày 23/3 đã cho thấy Trung Quốc bắt đầu xây dựng một đường băng dài 3.000m ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Các nhà phân tích trước đó đã phỏng đoán rằng Trung Quốc đang xây dựng một đường băng, nhưng các bức ảnh được tạp chí quốc phòng Jane's công bố ngày 16/4 đã cung cấp bằng chứng xác thực đầu tiên: một đoạn đường băng ở mặc phía đông bắc của đảo Chữ Thập. Trung Quốc đã bắt đầu cải tạo đất tại bãi đá này từ năm 2014.
Các bức ảnh khác cho thấy Trung Quốc có khả năng đang xây dựng đường băng thứ 2 trên đảo Xu Bi cũng thuộc Trường Sa.
Giới phân tích quốc phòng cho hay việc xây dựng là một phần trong dự án cải tạo lớn hơn của Trung Quốc tại ít nhất 5 đảo ở Biển Đông.
Philippines hồi năm ngoái cho biết nước này tin rằng Trung Quốc đang xây dựng một đường băng trên bãi đá Gạc Ma ở Trường Sa.
Các bức ảnh khác còn cho thấy Trung Quốc đang mở rộng một đường băng trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng đã bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.
Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền đối với hơn 80% diện tịc Biển Đông, thậm chí các vùng biển gần bờ các nước khác.

Ngoại trưởng G7 ra tuyên bố về an ninh hàng hải tại Biển Đông


Hội nghị Ngoại trưởng nhóm G7 ngày 16/4 đã bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động hàng hải ở biển Đông và biển Hoa Đông. 

Ngoại trưởng các nước G7 và đại diện của Liên minh châu Âu (Ảnh:
Ngoại trưởng các nước G7 và đại diện của Liên minh châu Âu (Ảnh: Spigel)
 
Sau hai ngày họp tại thành phố Luebeck ở Đức, ngoại trưởng các nước G7, gồm Anh, Pháp, Đức, Italia, Mỹ, Canada và Nhật Bản, đã ra Tuyên bố về An ninh Hàng hải.
Tuyên bố nêu rõ rằng ngoại trưởng các nước G7 quan ngại về những hành động đơn phương, bao gồm cải tạo đất trên diện rộng, vốn làm thay đổi thực trang ở biển Đông cũng như làm gia tăng căng thẳng, của Trung Quốc thời gian qua.
Cũng theo tuyên bố, ngoại trưởng các nước G7 phản đối bất cứ nỗ lực khẳng định chủ quyền lãnh thổ hoặc hàng hải thong qua các hình thức đe dọa, ép buộc hoặc vũ lực.
Cũng tại hội nghị nêu trên, ngoại trưởng các nước G7 cũng kêu gọi các bên liên quan ở Ukraine thực thi đầy đủ trách nhiệm và những cam kết đã ghi trong thỏa thuận Minsk. G7 một lần nữa kêu gọi Nga hợp tác để tìm ra một giải pháp cho tình hình hiện nay tại miền Đông.
Về tình hình tại Trung Đông, ngoại trưởng các nước G7 lên án mạnh mẽ những vụ tấn công tàn bạo và trái pháp luật, cũng như những vụ vi phạm nhân quyền của nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng. Tuyên bố của nhóm G-7 cho rằng cần phải có các biện pháp toàn diện, bao gồm các chính sách kinh tế và giáo dục, giúp ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan lan rộng.
Ngoài ra, một trong những chủ đề được đưa ra thảo luận trong cuộc họp nêu trên của ngoại trưởng nhóm G-7 là về Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á (AIIB). Nhóm G7 nhất trí về việc hợp tác bằng cách chia sẻ thông tin vì điều nay giúp bảo đảm quá trình điều hành mỗi quốc gia.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida cho biết ông cùng với người đồng cấp các nước đã thảo luận về môi trường an ninh tại châu Á. Theo ông, đây là vấn đề cấp thiết cần được đưa ra thảo luận vì Nhật Bản là quốc gia châu Á duy nhất tham gia nhóm G7.

Ngoại trưởng G7 thảo luận về an ninh biển châu Á


Nhật Bản cho biết sẽ đưa các vấn đề căng thẳng tại châu Á do những tranh chấp lãnh thổ có liên quan tới Trung Quốc ra bàn thảo tại hội nghị Ngoại trưởng Nhóm các nền công nghiệp phát triển (G7) khai mạc hôm nay 14/4 tại miền Bắc nước Đức.

Ngoại trưởng G7 thảo luận về an ninh biển châu Á
Những hành động gia tăng căng thẳng của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông sẽ là một trong những trọng tâm thảo luận tại hội nghị (Ảnh: Dailymail)
Ngoại trưởng nhóm G7 sẽ có các cuộc thảo luận kéo dài hai ngày 14-15/4 tại thành phố Lubeck ở miền Bắc nước Đức.
Chủ đề chính của cuộc thảo luận sẽ tập trung vào vấn đề an ninh hàng hải và tiến trình hòa bình mong manh tại Ukraine.
Trong tuyên bố trước thềm hội nghị, Nhật Bản cho biết sẽ đưa lên bàn thảo luận các vấn đề căng thẳng biển đảo ở châu Á liên quan đến các hoạt động gây hấn của Trung Quốc.
“Ngoại trưởng Fumio Kishida sẽ kêu gọi sự hợp tác từ những người đồng cấp Anh, Canada, Pháp, Đức, Italy và Mỹ để đối phó với việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với các đảo trên Biển Đông và Biển Hoa Đông”, giới chức Nhật Bản cho hay.
 
“Ông Kishida sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp quyền và sự tự do hàng hải”, các nguồn tin giấu tên này cho biết thêm.
Bên cạnh chủ đề về tự do và an ninh hàng hải, các nước G7 cũng sẽ thảo luận về tình hình cuộc khủng hoảng tại Ukraine vốn đang có chiều hướng nóng lên trong những ngày qua liên quan đến các hoạt đông quân sự và cáo buộc sử dụng vũ khí hạng nặng của các bên tham chiến.
Hiện tại, các cuộc xung đột giữa chính phủ Ukraine và lực lượng ly khai thân Nga ở miền Đông vẫn đang tiếp diễn, thậm chí ngày càng ác liệt, bất chấp việc các bên đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn và rút vũ khí hạng nặng hồi tháng 2 vừa qua.

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

Ba bước đi cần thiết của Mỹ ở Biển Đông

Chỉ trong ít tháng, Trung Quốc đã cải tạo các bãi đá nhỏ ở Biển Đông thành 6 căn cứ quân sự, gây đe dọa lớn cho khu vực và thách thức lợi ích tự do hàng hải của Mỹ. Trước tình hình đó, học giả Mỹ đề xuất 3 bước đi cần thiết cho chính quyền Washington.

Ba bước đi cần thiết của Mỹ ở Biển Đông
Quy mô các đảo đá ở Biển Đông đang được mở rộng từng ngày bằng các hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc (Ảnh: CSIS)
Trong một bài viết gây chú ý trên báo Washington Post gần đây, hai học giả Mỹ Michael J.Green và Mira Rapp Hooper đã bày tỏ quan ngại đặc biệt về những hành động bồi đắp đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đang rốt ráo tiến hành ở quần đảo Trường Sa.
Học giả Michael J.Green là Giáo sư hàng đầu của Đại học Georgetown và là Phó Chủ tịch phụ trách vấn đề châu Á và Nhật Bản của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS). Mira Rapp Hooper là cộng sự của Giáo sư Michael J.Green tại CSIS.
Theo hai tác giả, việc mở rộng và biến đổi các bãi đá nhỏ ở Biển Đông là diễn biến mới nhất trong một loạt hành động gây hấn của Trung Quốc.
Trước đó, hồi năm 2012, các lực lượng hàng hải Trung Quốc đã “xua đuổi” Philippines từ bãi cạn Hoàng Nham/Scaborough (theo cách gọi tương ứng của mỗi bên) về phía tiền đồn ở phía Bắc quần đảo Trường Sa. Cũng trong năm này, Bắc Kinh tuyên bố khu vực Hoàng Nham/ Scaborough nằm trong quyền quản lý của khu vực hành chính Tam Sa được lập một cách phi pháp và vội vã ở Biển Đông.
Tiếp đó đến tháng 5/2014, các tàu chiến Trung Quốc đã hộ tống đưa giàn khoan dầu nước sâu khổng lồ “Hải Dương-981” vào trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam.
Giờ đây, với việc thay đổi hiện trạng một số bãi đá trên Biển Đông để tạo thành 6 căn cứ quân sự có các vũng cạn và đường băng, Trung Quốc đã tiến thêm một bước nguy hiểm trong mục tiêu độc chiếm Biển Đông. Theo hai tác giả, các căn cứ này sẽ cho phép lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc duy trì hiện diện thường trực tại vùng biển giao thương huyết mạch nhộn nhịp bậc nhất thế giới mà không cần phải quay về đất liền để tiếp liệu hay sửa chữa.
Không chỉ thế, việc đẩy mạnh quy mô và tốc độ bồi đắp đảo nhân tạo của Bắc Kinh còn nhằm phục vụ mục tiêu sớm thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) như giới chức Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo. Sau khi ADIZ được thiết lập, mọi máy bay muốn đi qua khu vực cần phải đăng ký với chính quyền Bắc Kinh, tương tự như Trung Quốc đã làm một năm trước ở biển Hoa Đông.
Về vị trí các bãi đá được Trung Quốc cải tạo bồi đắp, theo các tác giả, Bắc Kinh đã rất khôn ngoan khi lựa chọn xây căn cứ quân sự trên những đảo mà tiềm lực quân sự của các nước xung quanh chưa đủ mạnh để thách thức, và cũng không nằm trong phạm vi bảo vệ của Mỹ.
Điều này trái ngược với biển Hoa Đông, nơi Trung Quốc phải tránh đụng độ với Lực lượng phòng vệ trên biển hùng mạnh của Nhật Bản và tránh châm ngòi cho hành động can thiệp của Mỹ liên quan đến quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang tranh chấp với Nhật Bản.
Trong bối cảnh đó, Mỹ - với vai trò là nước có lợi ích trong việc đảm bảo an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông - cần phải ngăn chặn Trung Quốc sử dụng áp lực thay đổi hiện trạng. Có 3 biện pháp mà chính quyền Tổng thống Barack Obama có thể thực hiện nay để ngăn Bắc Kinh đi theo xu hướng hiện nay:
Thứ nhất, Washington nên tiếp tục đầu tư giúp xây dựng năng lực cho các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là những nước bị đe dọa trực tiếp từ sự tăng cường lực lượng nhanh chóng của Bắc Kinh. Đặc biệt, Mỹ nên ủng hộ mạnh mẽ nỗ lực của các nước Đông Nam Á cải thiện khả năng giám sát hàng hải. Trong khi đó, Nhật Bản và một số nước khác giúp đầu tư cơ sở hạ tầng và chuyển giao trang thiết bị.
Thứ hai, hải quân Mỹ phải thể hiện rõ quan điểm là các hành động của Trung Quốc không được làm ảnh hưởng tới tự do hàng hải trong khu vực và việc thiết lập ADIZ ở Biển Đông là không thể được chấp nhận. Việc Mỹ triển khai luân phiên 4 tàu chiến tới Singapore đã giúp ích cho điều này, song các tàu thuộc Hạm đội 7 Hải quân Mỹ cũng cần phải tăng cường diễn tập với các đối tác trong khu vực.   
Thứ ba, Washington cần nhiệt thành ủng hộ các biện pháp ngoại giao và pháp lý của các nước Đông Nam Á nhằm kiềm chế tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông. Mỹ lâu nay muốn ASEAN và Trung Quốc đẩy nhanh xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhưng chưa có hành động thực sự cụ thể để buộc Bắc Kinh không được trì hoãn tiến trình đàm phán. Vụ kiện của Philippines đối với những tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc ở Biển Đông là cơ hội tốt để Mỹ triển khai ngay các hành động ủng hộ cụ thể.
Theo hai tác giả Michael J.Green và Mira Rapp Hooper, mục tiêu chính sách của Mỹ không nhằm đánh bại Trung Quốc trên mặt trận ngoại giao ở châu Á mà chỉ muốn “lái” Bắc Kinh đi theo con đường ngoại giao trách nhiệm hơn. Vì thế, ba biện pháp đề xuất ở trên cần phải được tiến hành một cách nhịp nhàng, đồng bộ để đạt kết quả cao nhất.
Trong thời gian qua, mặc dù Washington đã có những bước đi nhỏ theo hướng  này nhưng chưa phát huy tác dụng do còn quá rụt rè trong việc gây áp lực thực sự cho Bắc Kinh. Tuy nhiên, khi Trung Quốc đã dám “bất chấp tất cả” để tăng cường tiềm lực quân sự ở Biển Đông thì Nhà Trắng không thể trù chừ được nữa. Nếu không có phản ứng đủ mạnh ngay lúc này, nguy cơ về một cuộc đối đầu nguy hiểm trong tương lai sẽ rất khó tránh khỏi.

Các nghị sĩ Mỹ kêu gọi chiến lược ngăn chặn Trung Quốc bồi đắp ở Biển Đông

Dân trí Các nghị sĩ hàng đầu của Mỹ ngày 19/3 đã bày tỏ lo ngại về quy mô và tốc độ cải tạo đất của Trung Quốc ở Biển Đông, nhấn mạnh rằng một chiến lược chính thức của Mỹ là cần thiết nhằm giảm tốc hoặc chấm dứt các hành động của Bắc Kinh.

Thượng nghị sĩ John McCain, một trong những ký tên trong lá thư (Ảnh:
Thượng nghị sĩ John McCain, một trong những ký tên trong lá thư (Ảnh: Guardian)
Trong một lá thư gửi Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Bộ trưởng quốc phòng Ash Carter, các nghị sĩ Cộng hòa John McCain, Bob Corker và các nghị sĩ Dân chủ Jack Reed và Bob Menendez cho hay nếu không có một chiến lược toàn diện, "các lợi ích lâu đời của Mỹ, cũng như các đồng minh và đối tác của chúng ta bị đe dọa đáng kể".
Các nghị sĩ Mỹ cho biết việc Trung Quốc xây dựng và cải tạo đất ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông đã khiến Bắc Kinh có khả năng mở rộng tầm với quân sự và "là một thách thức trực tiếp", không chỉ với các lợi ích của Mỹ và khu vực, mà cả cộng đồng quốc tế".
Bức thư nói rằng, bãi đá Gaven đã mở rộng lên quy mô 11,3 héc-ta trong năm qua và Gạc Ma, trước đây là bãi đá ngầm, giờ đây đã trở thành một hòn đảo rộng 10 héc-ta. Bãi Chữ thập đã mở rộng về kích thước hơn 11 lần kể từ tháng 8 năm ngoái.
"Trong khi các nước khác xây dựng trên các vùng đất có sẵn, Trung Quốc lại đang thay đổi quy mô, cấu trúc và các đặc điểm tự nhiên của các thực thể", bức thư viết. "Đây là một sự thay đổi về chất, dường như là nhằm để thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông".
Bức thư nói thêm rằng bất kỳ một nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm quân sự hóa các đảo nhân tạo đều có thể "gây ra hậu quả nghiêm trọng" và có thể khiến Bắc Kinh tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không mới ở Biển Đông, như Bắc Kinh đã làm hồi năm 2013 tại một khu vực tranh chấp với Nhật Bản ở Hoa Đông.
 
Philippines: Tăng ngân sách quốc phòng, Trung Quốc sẽ tăng cải tạo Biển Đông
Bãi đá Gạc Ma, nơi Trung Quốc đã bồi đắp và đang tiến hành xây dựng trái phép các công trình quy mô lớn, nhìn từ trên cao. (Ảnh: Sina)
Các nghị sĩ Mỹ, những người đứng đầu Ủy ban quân vụ thượng viện và Ủy ban đối ngoại thượng viện, cho hay Washington cần đưa ra một chiến lược trong đó vạch ra "những hành động cụ thể mà Mỹ có thể thực hiện nhằm giảm tốc hoặc chấm dứt các hành động cải tạo của Trung Quốc".
Bắc Kinh đơn phương đòi chủ quyền 90% diện tích Biển Đông, bao trùm lên vùng biển của các quốc gia khác trong khu vực.
Trung Quốc đã bao biện hành động cải tạo của mình ở Biển Đông, nói rằng nước này không tìm cách thay đổi trật tự thế giới.
Trung Quốc đã đẩy mạnh hoạt động cải tạo đất trên 6 bãi đá ngầm ở Trường Sa. Các công nhân nước này đang xây dựng các cảng và các điểm dự trữ nhiên liệu và có thể là 2 đường băng.
Các chuyên gia nói rằng động thái của Trung Quốc sẽ không chỉ ảnh hưởng tới vị thế ưu việt về quân sự của Mỹ trong khu vực mà còn cho phép Bắc Kinh tiến sâu hơn vào trung tâm hàng hải của Đông Nam Á