Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Hình ảnh thành phố mang tên Bác sau 39 năm giải phóng


Sau ngày giải phóng, chính quyền TPHCM dồn sức đầu tư cho hàng loạt công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, làm tiền đề cho nền kinh tế thành phố phát triển thần tốc. Những công trình ấy cũng định hình nên TPHCM hôm nay và định hướng phát triển trong tương lai.

 
Xa lộ Hà Nội, cửa ngõ quan trọng nhất thành phố
Cửa ngõ lớn nhất thành phố
Cửa ngõ lớn nhất thành phố

Xa lộ Hà Nội vốn là con đường thiên lý nối đô thị Sài Gòn cũ với các tỉnh phía Bắc có từ rất xa xưa. Từ ngày lập phố ở vùng đất này, tuyến đường trên đã trở thành cửa ngõ đường bộ quan trọng bậc nhất giúp thành phố giao thương với các vùng đất khác ở miền Đông, miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc.
Đến nay, cửa ngõ này vẫn giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong các cửa ngõ của thành phố, đảm nhận hàng trăm ngàn lượt xe cá nhân, hàng chục ngàn lượt xe hàng hóa ra vào mỗi ngày. Chính vì lưu lượng giao thông quá lớn, tuyến đường này liên tục được nâng cấp, mở rộng. Đến nay xa lộ đã rộng 80m với 12 làn xe, có đường song hành, tuyến cây xanh ven đường; nhiều đoạn đang được mở rộng ra đến 120m, trở thành con đường quy mô nhất thành phố.
Đại lộ Đông Tây, huyết mạch nối Đông và Tây
Đại lộ Đông Tây ôm sát kênh Bến Nghé – Tàu Hủ, băng xuyên qua trung tâm thành phố
Đại lộ Đông Tây ôm sát kênh Bến Nghé – Tàu Hủ, băng xuyên qua trung tâm thành phố

Suốt 30 năm sau ngày giải phóng, quốc lộ 1 là tuyến đường duy nhất nối cửa ngõ Đông Bắc và Tây Nam, giúp hàng hóa từ phía Bắc băng qua TPHCM để về các tỉnh miền Tây. Qua thời gian, đoạn đường này ngày càng quá tải, xuống cấp trầm trọng và liên tục xảy ra ùn tắc, tai nạn gây thiệt hại vô kể cho xã hội. 1 tuyến đường huyết mạch khác băng qua thành phố là nhu cầu bức thiết để TPHCM phát triển thêm một bước mới. Từ đó, đại lộ Đông Tây ra đời.
Với lộ trình nối từ cửa ngõ xa lộ Hà Nội chạy qua hàng loạt quận nội thành rồi tiến về cửa ngõ phía Tây, đại lộ Đông Tây có thể nói là tuyến đường mới quy mô lớn nhất mà TPHCM xây dựng cho đến thời điểm hiện nay. Công trình này còn có 1 hạng mục rất nổi tiếng là đường hầm Thủ Thiêm băng dưới sông Sài Gòn. Hiện đại lộ này được chia thành 3 phần: đường Mai Chí Thọ, đường hầm vượt sông Sài Gòn và đường Võ Văn Kiệt.
Đại lộ Nguyễn Văn Linh, mở đường tiến về Nam
Con đường này biến cả vùng đồng ruộng thành phố thị sầm uất
Con đường này biến cả vùng đồng ruộng thành phố thị sầm uất

Nếu đặt vào bối cảnh hiện nay thì đại lộ Nguyễn Văn Linh không lớn, cũng không dài so với các tuyến đường mới mở của thành phố. Tuy nhiên, nếu đặt vào bối cảnh cuối thế kỷ 20 thì đây gần như là 1 con đường kỳ tích băng thẳng qua vùng đất lầy lội vốn là những cánh đồng bao la, hoang vắng nằm ở phía Nam thành phố; kết nối trung tâm thành phố với quốc lộ 1, tiến về miền Tây.
Chính nhờ con đường này, vùng biên phía Nam của khu vực đô thị TPHCM vốn chỉ kéo đến quận 4 dần dần phát triển thêm về phía Nam, phát triển mạnh vùng quận 7 và Bình Chánh trong thời gian gần 20 năm nay. Cũng trên tuyến đường này, Phú Mỹ Hưng - một khu đô thị văn minh được quy hoạch bài bản ngay từ đầu ra đời, trở thành 1 đô thị kiểu mẫu, biểu tượng cho sự phát triển đô thị của TPHCM.
Cầu vượt, hầm chui – giải quyết bài toán khó
Những cây cầu vượt như cầu vượt Thủ Đức giúp giảm ùn tắc tại các giao lộ trọng điểm
Những cây cầu vượt như cầu vượt Thủ Đức giúp giảm ùn tắc tại các giao lộ trọng điểm

Những năm đầu thế kỷ 21, TPHCM liên tục xảy ra hiện tượng ùn tắc giao thông nghiêm trọng. Diện tích mặt đường thiếu thốn là bài toán nan giải không thể giải quyết ngày một ngày hai mà cần một chiến lược đầu tư dài hơi. Lúc này, các chuyên gia giao thông bàn tính đến nhiều biện pháp hiệu quả mà tài lực thành phố chịu được. Giải pháp nút giao khác mức được nhiều chuyên gia nhắc tới.
Trong giờ cao điểm, những điểm ùn tắc thường xuất phát ngay tại các giao lộ. Lượng xe quá lớn, các dòng xe giao cắt tại giao lộ khiến thời gian hành trình tăng cao tạo thành điểm ùn. Do đó, giải pháp xây dựng nút giao khác mức được đề xuất để giảm giao cắt giữa các luồng xe.
Từ đó, nhiều nút giao khác mức ra đời tại các giao lộ trọng điểm như cầu vượt Cát Lái, hầm chui Tân Tạo, hầm chui Linh Trung, cầu vượt Trạm 2… đã cho hiệu quả thấy rõ. Biện pháp này được mở rộng với hàng loạt cầu vượt băng ngang quốc lộ 1A; cầu vượt bằng thép trong nội thị ở các giao lộ trọng yếu như vòng xoay Hàng Xanh, ngã tư Thủ Đức, giao lộ Lăng Cha Cả, vòng xoay Cây Gõ… Tình hình ùn tắc 3 năm nay tạm lắng một phần rất lớn là nhờ vào những cây cầu vượt, hầm chui này.
Hai tuyến kênh xanh bao quanh thành phố
2 tuyến kênh xanh giúp tô điểm cho TPHCM thêm mỹ miều
2 tuyến kênh xanh giúp tô điểm cho TPHCM thêm mỹ miều

Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè và Bến Nghé – Tàu Hủ ngày xưa vốn là 2 tuyến đường thủy trọng yếu của Sài Gòn. Nhưng theo thời gian, 2 tuyến đường thủy này mất đi tầm quan trọng vốn có; đặc biệt là kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã mất hẳn chức năng giao thông kể từ những năm 1980, khi mà dòng kênh bị lấn chiếm, ô nhiễm nghiêm trọng.
Đến nay, hai dòng kênh này đã được thành phố cải tạo, bắt đầu hồi phục nguồn nước đảm bảo cho cá tôm sống được, dự định phát triển thành 2 tuyến du lịch đường thủy trong tương lai. Nếu tính kỹ thì vai trò giao thông của 2 tuyến kênh này không lớn, nhưng với hình thế bao bọc xung quanh khu trung tâm thành phố, việc cải tạo 2 dòng kênh này giúp nâng tầm TPHCM từ 1 đô thị phát triển nhếch nhác thành 1 đô thị văn minh, sạch đẹp và đáng sống.
Cầu Phú Mỹ và Thủ Thiêm, mở phố về Đông
2 tuyến kênh xanh giúp tô điểm cho TPHCM thêm mỹ miều
Với những cây cầu, bán đảo Thủ Thiêm sẽ trở nên hấp dẫn hơn với nhà đầu tư, tương lai phát triển thành phố Đông sẽ đến sớm hơn

Tính về quy mô, trong 39 năm sau ngày giải phóng, TPHCM xây dựng khá nhiều cây cầu dài, rộng và vốn lớn tương đương như cầu Phú Mỹ và cầu Thủ Thiêm. Tuy nhiên, nếu tính về vị trí, 2 cây cầu này lại có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó sẽ giúp TPHCM phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian sắp tới. Bởi 2 cây cầu này đều nối phần đô thị trung tâm hiện hữu của thành phố với bán đảo Thủ Thiêm, Phố Đông của đô thị trung tâm TPHCM.
Với việc TPHCM quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm trở thành 1 phần của khu trung tâm thành phố mới thì Thủ Thiêm tương lai chắc chắn sẽ được đầu tư nhiều để phát triển. Nhưng muốn phát triển nhanh và mạnh, Thủ Thiêm cần nhiều nguồn lực xã hội ủng hộ. Muốn có sự ủng hộ này, TPHCM phải phá thế “ngăn sông” của bán đảo Thủ Thiêm. Cầu Phú Mỹ và cầu Thủ Thiêm cùng với đường hầm vượt sông Sài Gòn chính là những công trình đảm nhận vai trò đó. Nó góp phần giúp trung tâm thành phố tiến về phía Đông, xây dựng Phố Đông trong tương lai.
 
“Chuyển mình” mạnh mẽ
39 năm sau ngày giải phóng, TP Hồ Chí Minh đã và đang “chuyển mình” mạnh mẽ, là “đầu tầu” kinh tế của cả nước. TP những năm qua tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa; năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, làm tốt vai trò đầu tàu kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, đóng góp ngày càng lớn cho cả nước...
Dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè hồi sinh và trở nên thơ mộng
 
Dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè hồi sinh và trở nên thơ mộng
Dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè hồi sinh và trở nên thơ mộng
Dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè "hồi sinh" và trở nên thơ mộng
Khu vực được mệnh danh như biểu tượng của thành phố
Khu vực được mệnh danh như "biểu tượng" của thành phố
Hầm Thủ Thiêm - Công trình hiện đại bậc nhất  
Hầm Thủ Thiêm - Công trình hiện đại bậc nhất  
Nhà thờ Đức Bà ngay giữa trung tâm thành phố
Nhà thờ Đức Bà ngay giữa trung tâm thành phố
Một góc thành phố nhìn từ trên cao
Một góc thành phố nhìn từ trên cao
Khu vực ngoại thành phát triển mạnh mẽ
Khu vực ngoại thành phát triển mạnh mẽ
Nhiều công trình đang mọc lên.
 
Nhiều công trình đang mọc lên.
Nhiều công trình đang mọc lên.
Nhiều công trình đang mọc lên.
Nhiều công trình đang mọc lên.
 

30/4/1975 ở Côn Đảo: Cai ngục tháo chạy, tù chính trị tự giải phóng


Cách đây 39 năm, vào những ngày này ở huyện Côn Đảo diễn ra những biến động lớn lao. Tù chính trị đã tự giải phóng cho chính mình. Ngay khi liên lạc được với đất liền, đại diện tù chính trị ở Côn Đảo nghẹn ngào đề nghị: “Chúng tôi cần ảnh Bác Hồ”.


Vốn là một quần đảo nhỏ và xinh đẹp, nhưng trước năm 1975 Côn Đảo được coi là “địa ngục trần gian”, bởi Pháp, Mỹ đã xây dựng ở đây một hệ thống nhà tù khổng lồ trong suốt quá trình xâm lược nước ta.
 
Nhiều du khách ghé thăm Côn Đảo trong những ngày cuối tháng Tư lịch sử này không khỏi xúc động khi được nghe lại câu chuyện về những biến động lớn lao ở đây trong ngày 30/4/1975, cách đây 39 năm.
 
Với kinh nghiệm hơn 10 năm công tác ở Tổ thuyết minh Ban quản lý di tích Côn Đảo, chị Danh Kim Hoàng - Tổ trưởng tổ thuyết minh - nhớ cặn kẽ từng chi tiết trong quãng thời gian lịch sử này. Theo lời kể của chị, Côn Đảo trong những ngày này đã có những biến động đầy lớn lao, mãi mãi đi vào lịch sử.
Cai ngục tháo chạy
Chiều 29/4/1975, được tin Sài Gòn thất thủ, ở Côn Đảo diễn ra một cuộc tháo chạy cực lớn. Bầu trời Côn Đảo náo loạn, máy bay quân sự lên xuống sân bay Cỏ Ống như mắc cửi chở quân, tướng Mỹ, cai ngục đóng tại Côn Đảo di tản ra tàu sân bay đang đón đợi ngoài khơi.
Riêng "chúa đảo" Lân Hữu Phương đã tự lái xe trong đêm, chở vợ con qua chi khu Bến Đầm bí mật xuống tàu di tản.
Sáng 30/4/1975, lúc đầu địch mưu tính canh giữ các nhà tù nghiêm ngặt, sau đó thủ tiêu toàn bộ tù chính trị bằng lựu đạn vào giờ chót, nhưng cuối cùng chúng đã không thể thực hiện được âm mưu khủng khiếp này.
 
Khi nghe tin chính quyền Dương Văn Minh đầu hàng quân giải phóng, toàn bộ quân tướng, cai ngục trên đảo chỉ còn 1 suy nghĩ duy nhất: Chạy trốn. Trên đảo đã diễn ra một cuộc di tản kéo dài tới tận nửa đêm trong khung cảnh hỗn loạn.
 
Trước tình hình này, linh mục Phạm Gia Thụy đã vận động giáo dân trong họ đạo Côn Sơn không di tản, ở lại giúp tù chính trị thoát khỏi ngục tù. Ông vận động được một nhóm lính bảo an mở cửa nhà lao giải thoát tù chính trị.
 
Trong khi đó, hầu hết tù chính trị trong các trại đều bị canh giữ, không hề hay biết thông tin, nhiều trại đang chuẩn bị kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5.
Côn Đảo được giải phóng
23 giờ ngày 30/4/1975, lính gác mở cửa phòng 24 khu H để báo tin chính quyền Dương Văn Minh đã đầu hàng, trao trả chính quyền về Cách mạng.
Lúc này các đồng chí tù chính trị trong khu H nhận định, có thể Sài Gòn đã được giải phóng, nhưng cũng có thể đây là âm mưu thủ tiêu của địch. Tù chính trị đã yêu cầu radio để nghe tin tức, nắm tình hình.
Khi chắc chắn Sài Gòn được giải phóng, những người tù chính trị vỡ òa sung sướng. Họ nhanh chóng loan báo tin tới các phân trại. Tiếng reo hò hân hoan vang lên dậy trời. Bắt đầu từ khu H, tới 3 giờ sáng 1/5/1975, cả tám khu của trại VII hoàn toàn được giải phóng.
Những người tù chính trị quyết định thành lập Đảo ủy lâm thời gồm bảy người để lãnh đạo cuộc nổi dậy do đồng chí Trịnh Văn Tư làm Bí thư, thành lập chính quyền cách mạng để quản lý và giải quyết mọi việc trên đảo.
Đảo ủy lâm thời đã tổ chức tù chính trị từ trại VII đến giải phóng các trại khác. Tới rạng sáng 1/5/1975, tù nhân tại trại I, IV, V, rồi các trại II, III, VIII,  khu biệt giam Chuồng Bò cũng lần lượt được mở cửa giải phóng.
“Chúng tôi cần ảnh Bác Hồ”
Tới 8 giờ sáng 1/5, thị trấn Côn Đảo đã hoàn toàn thuộc về chính quyền cách mạng. 10 giờ sáng cùng ngày, Đài truyền thanh Côn Đảo phát sóng, đưa bản tin Côn Đảo hoàn toàn giải phóng...
 
Ngày 2/5/1975, một đài vô tuyến điện được hồi phục, và phát sóng chuyển bức điện đầu tiên từ Côn Đảo vào đất liền, cho tới 15 giờ cùng ngày thì liên lạc được với Thành ủy Sài Gòn - Gia Định.
Khi được hỏi Côn Đảo cần gì để đất liền chi viện ngay, đồng chí đại diện cho Đảo ủy lâm thời đã nghẹn ngào trả lời: “Chúng tôi cần ảnh Bác Hồ”.
Rạng sáng 4/5/1975, tàu Hải quân từ đất liền cập bến Côn Đảo, mang theo 500 tấm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những tù nhân vừa cách đây mấy ngày còn là tù nhân chính trị, giờ trở thành tự do. Họ rước hình Bác và cờ giải phóng về từng phân trại, rất nhiều người òa khóc vì niềm vui thống nhất đất nước.
***
39 năm sau ngày giải phóng, những dấu tích "địa ngục trần gian" vẫn còn nguyên ở huyện đảo Côn Đảo. Trong các trại lao tù, những cây bàng cổ thụ trăm tuổi vẫn xanh lá, rì rào đón gió biển. Những bức tường, chuồng cọp, phòng giam xám xịt, nơi không biết bao nhiêu nhà cách mạng đã đổ máu, hi sinh, giờ vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng cuộc sống ở huyện đảo đã hoàn toàn thay đổi, tươi mới. Côn Đảo giờ trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn hàng đầu Việt Nam, hàng năm thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài nước. Côn Đảo ngày nay được những người yêu mến ví như thiên đường du lịch tràn đầy những bí ẩn chờ khám phá.
 
Những hình ảnh lịch sử ở Côn Đảo:
 
30/4/1975 ở Côn Đảo: Cai ngục tháo chạy, tù chính trị tự giải phóng
Chị Danh Kim Hoàng - Tổ trưởng tổ thuyết minh đang giới thiệu khách tham quan về mảnh đất lịch sử Côn Đảo.
 
Những cây bàng trăm tuổi trong các trại tù
Những cây bàng trăm tuổi trong các trại tù
Những cây bàng trăm tuổi trong các trại tù
 
Một bức tường xám xịt bao kín trại giam.
Một bức tường xám xịt bao kín trại giam.
 
Bên trong một phòng giam giữ tù chính trị..
Bên trong một phòng giam giữ tù chính trị.
 
Những bức tượng tái hiện cảnh tù nhân bị tra tấn ở nhà tù Côn Đảo.
Những bức tượng tái hiện cảnh tù nhân bị tra tấn ở nhà tù Côn Đảo.
 
 
Cổng dẫn vào trại Phú Tường (nơi các nhà báo phương tây phát hiện chuồng cọp kiểu Pháp)
Cổng dẫn vào trại Phú Tường (nơi các nhà báo phương tây phát hiện chuồng cọp kiểu Pháp)
 
Cổng dẫn vào trại Phú Tường (nơi các nhà báo phương tây phát hiện chuồng cọp kiểu Pháp)
Cổng dẫn vào trại Phú Tường (nơi các nhà báo phương tây phát hiện chuồng cọp kiểu Pháp)
Hệ thống chuồng cọp kiểu Pháp (bức tượng phía xa tái hiện cảnh cai ngục dùng gậy chọc tù nhân từ trên cao) 
 
Cửa dẫn vào khu chuồng cọp kiểu Mỹ
Cửa dẫn vào khu chuồng cọp kiểu Mỹ
 
Những ngôi mộ chiến sĩ cách mạng trong nghĩa trang Hàng Dương luôn có khách viếng thăm.
Những ngôi mộ chiến sĩ cách mạng trong nghĩa trang Hàng Dương luôn có khách viếng thăm.
Bảo Khánh
(lược ghi theo lời kể của thuyết minh viên Ban quản lý di tích Côn Đảo)

Chúng tôi tiến công giải phóng Sài Gòn từ hướng Tây-Tây Nam


Về ý định giải phóng miền Nam, tuy đã cùng tập thể Bộ Chính trị họp bàn và thống nhất là hai năm (1975-1976), nhưng anh Lê Duẩn vẫn băn khoăn và nói cố gắng làm sớm, giải phóng sớm miền Nam, để ngụy nó lại hồn thì khó. Tôi cho đây là một suy nghĩ sắc sảo của anh Lê Duẩn.


Sau khi Bộ chỉ huy Miền (gọi tắt là B2) đã thông qua “Kế hoạch quân sự mùa khô 1974-1975” rồi thì hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà mới ra họp Trung ương. Trong khi hai anh đang họp ngoài đó thì trong này chúng tôi giải phóng Phước Long.
Thực tế sau khi giải phóng Phước Long (ngày 6-1-1975) và núi Bà Đen, Bộ chỉ huy Miền chúng tôi đã bắt tay ngay vào làm “Kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn”. Chúng tôi thảo phương án sử dụng lực lượng, lấy lực lượng tại chỗ là chủ yếu, tính toán kỹ thấy chỉ thiếu 1 quân đoàn. Anh Trần Văn Trà đi họp ngoài Bắc vào, anh nói “anh Ba" (tức Lê Duẩn) bảo sẽ làm sớm, để chậm sẽ khó khăn, phức tạp”. Anh Trà cho biết, sau khi ta đã có chiến thắng Phước Long thì mục tiêu đột phá mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên vẫn là Chi khu Đức Lập chứ không phải là Buôn Ma Thuột, lúc đầu ý kiến chọn đánh Buôn Ma Thuột còn ngang ngửa lắm, nhưng rồi cuối cùng, thực tiễn chiến trường đã cho phép ta chọn Buôn Ma Thuột. Anh Lê Duẩn nói “đánh Buôn Ma Thuột xong sẽ đánh Sài Gòn”. Khi anh Trà trở về, Bộ chỉ huy Miền chúng tôi họp bàn và thống nhất là điện xin Trung ương đưa ngay Quân đoàn 3 vào tăng cường cho B2. Cả Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền gần như thống nhất là sẽ tiến công và giải phóng Sài Gòn trong tháng 4, vì sang tháng 5 ở Nam Bộ đã vào mùa mưa, việc cơ động của ta, nhất là tăng, pháo và cơ giới sẽ khó khăn, mà khó khăn nhất là hướng Tây-Tây Nam Sài Gòn, vùng Long An mênh mông đồng nước, kênh rạch và sình lầy. Cùng với việc soạn thảo kế hoạch là xây dựng “Quyết tâm chiến đấu”, sơ đồ đã phác ra 5 hướng (Bắc, Tây Bắc, Tây-Tây Nam, Đông, Đông Bắc) tiến công vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền tay sai. Người trực tiếp vẽ sơ đồ là đồng chí Long, người của Bộ Tổng Tham mưu vào làm Trưởng phòng Tác chiến Sở Chỉ huy Miền nên tác nghiệp rất nhanh. Phải nói, Bộ chỉ huy Miền chúng tôi thời đó có được đội ngũ cán bộ tham mưu giúp việc đã giỏi chuyên môn lại vừa có kỷ luật và thái độ trách nhiệm rất cao, nên mọi việc được giao anh em thường hoàn thành trước thời gian, nhiều khi thấy anh em ham việc quên cả ăn và nghỉ chúng tôi nhắc nhở thì họ “cự” lại “Thủ trưởng nói nửa lời là làm chết bỏ!-xả thân không nề hà” khiến chúng tôi rất yên tâm.
Khi hai anh Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị cử vào (cùng với anh Phạm Hùng) làm đại diện Bộ Chính trị tại mặt trận, các anh xem và nói: “Kế hoạch làm tốt, nhưng phải thêm quân”. Và các anh cũng thấy nơi khó nhất là hướng Tây- Tây Nam, vì quá trình vận động và tiến công phải vượt qua địa hình nhiều sình lầy. Các anh cũng thống nhất với nhận định, phân tích của Bộ chỉ huy Miền, đây là một hướng tiến công rất quan trọng, vì có chiếm lĩnh và làm chủ lộ 4, ta mới cắt đứt được khả năng cơ động đường bộ của quân ngụy từ Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật (Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long) về ứng cứu cho Sài Gòn, hoặc ngược lại chúng tháo chạy từ Sài Gòn về Cần Thơ để cố thủ, như vậy đều sẽ gây thêm nhiều khó khăn và nhiều tổn thất cho ta trong trận đánh cuối cùng. Tôi lại được giao làm Phó tư lệnh Chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn-kiêm Tư lệnh cùng anh Lê Văn Tưởng (tức Hai Tưởng) làm Chính ủy của cánh quân tiến công từ hướng Tây-Tây Nam, một trong 5 hướng tiến công của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Quân giải phóng từ hướng Tây Nam Bộ tiến về Sài Gòn. Ảnh tư liệu
Quân giải phóng từ hướng Tây Nam Bộ tiến về Sài Gòn. Ảnh tư liệu
Trước khi Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, Bộ chỉ huy Chiến dịch đã quyết định rút hai anh, Nguyễn Minh Châu (tức Năm Ngà)-Tư lệnh và Văn Phác-Chính ủy Đoàn 232 về công tác ở Bộ chỉ huy Miền. Cánh quân hướng Tây-Tây Nam lúc này trên cơ sở Đoàn 232 và được bổ sung một số đơn vị, đội hình tiến công của hướng này gồm có: Ba sư đoàn bộ binh (3, 5 và 9), 4 trung đoàn bộ binh độc lập; 1 trung đoàn đặc công; được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T54; 1 tiểu đoàn thiết giáp PT85; 1 tiểu đoàn pháo 130mm; 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn phòng không; Sư đoàn 8 Bộ binh của Quân khu 8. Như vậy, lực lượng của cánh quân hướng Tây-Tây Nam chúng tôi tương đương 1 quân đoàn tăng cường, cùng các LLVT và lực lượng chính trị của địa phương. Cánh quân này có nhiệm vụ: Cắt lộ 4 (đoạn Bến Lức đến Tân An), tiến công giải phóng Bến Lức và Tân An, cắt đứt sự liên hệ của địch giữa Sài Gòn và đồng bằng miền Tây, diệt địch ở Hậu Nghĩa, mở cửa tuyến sông Vàm Cỏ, tổ chức một lực lượng binh chủng hợp thành (cỡ sư đoàn tăng cường) tiến công Sài Gòn từ hướng Tây, chiếm Biệt khu Thủ đô, tổ chức một bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập; tổ chức một lực lượng từ phía Nam đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, phát triển đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát, chiếm các quận 5, 6, 7 và Bình Chánh. Nói gọn lại thì chúng tôi được giao 3 mục tiêu rất quan trọng là: Cắt đứt lộ 4 (đoạn từ Long An đi Bến Lức), tiến công Tổng nha Cảnh sát và Biệt khu Thủ đô; sau đó chia làm hai mũi, một vào Dinh Độc Lập và một vào căn cứ Bộ tư lệnh Hải quân ngụy ở Ba Son và Bạch Đằng.
Khi nhận nhiệm vụ cùng tôi chỉ huy cánh quân trên hướng Tây-Tây Nam đánh vào Sài Gòn, anh Lê Văn Tưởng rất phấn khởi vì ở “thời điểm lịch sử” lại được cấp trên giao nhiệm vụ đúng với ước nguyện của mình “trận cuối cùng được trực tiếp về tham gia giải phóng quê hương", anh gốc người Long An. Tôi đã có dịp sát cánh cùng anh trong đợt hai của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, anh là một cán bộ trung thực, dễ gần, chu đáo và rất kiên cường, dũng cảm. Nhận nhiệm vụ xong, tôi bảo anh về trước chuẩn bị về tổ chức. Chiều 13-4-1975 anh đi, ngày 14-4 đã có mặt ở Sở Chỉ huy của cánh quân hướng Tây-Tây Nam bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Huệ-Long An; còn tôi ở lại họp Bộ chỉ huy Chiến dịch, đến ngày 17-4 mới xuống Long An, chính thức cầm quân ở hướng này.
Anh Hai Tưởng trao đổi, chúng tôi đề xuất và được trên chấp thuận điều anh Lê Quốc Sản-Tư lệnh Khu 8 làm Phó chỉ huy, bổ nhiệm anh Hai Nghiêm-Phó chỉ huy Đoàn 232 làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh cánh quân hướng Tây-Tây Nam. Anh Nghiêm trước ở ngoài Bắc làm Trưởng phòng ở Cục Tác chiến, lúc mới vào cũng làm Trưởng phòng Tác chiến, sau làm Cục trưởng, là người có tác phong rất tỉ mỉ lại chịu khó, rất kiên định trong vấn đề đánh Mỹ.
Việc cắt lộ 4 (đánh chiếm, làm chủ đường số 4-đoạn từ Tân An đến Bến Lức, cắt đứt đường cơ động của ngụy từ Sài Gòn đi Cần Thơ) là nhiệm vụ rất khó khăn. Bộ Tư lệnh cánh quân hướng Tây-Tây Nam chúng tôi đã chọn và giao cho Sư đoàn 5 do đồng chí Út Liêm làm Sư trưởng, sau đó là đồng chí Vũ Thược (tức Năm Thược) thay thế; đồng chí Hòa làm Chính ủy (trước đó đồng chí Hòa làm Chánh Văn phòng Bộ chỉ huy Miền) thực hiện, với yêu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ trước ngày N-3 (tức trước ngày toàn tuyến nổ súng tiến công 3 ngày), sau đó phối hợp với LLVT tại chỗ tiến công giải phóng Tân An và Bến Lức, giữ vững khu vực đã giải phóng. Quá trình cơ động đến các vị trí triển khai đội hình chiến đấu, Sư đoàn 5 gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự giúp đỡ của nhân dân và các LLVT địa phương, nên đơn vị đã vượt qua tất cả. Hình ảnh làm cán bộ, chiến sĩ chúng tôi ấn tượng mãi ở đây là cô du kích tên Sáu Sửa, khi cô dẫn đường cho một trung đoàn của Sư 5 cơ động, trên thì mưa như xối, dưới là sình lầy, có đoạn phải dầm mình dưới nước mà đi, đỉa thấy hơi người là bu vào cắn, nhiều trai tráng còn sợ, vậy mà cô rất bình tĩnh vừa lội vừa bắt từng con ném ra xa. Nhờ có cô dẫn đường và tham mưu (lúc đầu Sư đoàn 5 xác định tổ chức thành hai mũi tiến công. Mũi thứ nhất, lực lượng là một trung đoàn, giải phóng Thủ Thừa; mũi thứ hai, lực lượng là hai trung đoàn, tiến công giải phóng Bến Lức và thị xã Tân An cùng lộ 4, tổ chức giữ chắc địa bàn, sau đó cho một lực lượng phát triển chiến đấu vào thành phố, giải phóng được khu Phú Lâm. Nhưng cô Sáu Sửa góp ý: Chỉ cần tập trung đánh Bến Lức và thị xã Tân An thì quân ngụy ở Thủ Thừa sẽ rút chạy, Chỉ huy Sư đoàn 5 đã tiếp thu và tổ chức thực hiện theo phương án đó, kết quả đúng như nhận định của cô) nên Sư đoàn 5 vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ lại tránh được nhiều tổn thất hy sinh. Cùng với các ý kiến tham mưu có hiệu quả, cô Sáu Sửa được cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn suy tôn là Trung đoàn phó. Sau này, với nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, cô Sáu Sửa đã được tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, làm Bí thư Huyện ủy Thủ Thừa, rồi huyện Đức Huệ sau đó làm Phó chủ tịch tỉnh Long An.
Theo Đại tướng Lê Đức Anh

Những hình ảnh quý của khoảnh khắc chiến thắng 30/4/1975 lịch sử


“Cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hi sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn… Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.


Lời dặn dò trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời tiên tri và là động lực để toàn quân, toàn dân chiến đấu. 30/4/1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, “Mỹ cút, ngụy nhào”, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Nam Bắc sum họp một nhà.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Đã 39 năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhắc lại sự kiện lịch sử này, ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy tự hào về các anh hùng dân tộc đã đứng lên bảo vệ và đấu tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc. Thời khắc thiêng liêng ấy vẫn mãi là biểu tượng rực rỡ nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - một trong những sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc trong lịch sử Việt Nam.
Hòa trong không khí chào mừng kỷ niệm 39 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, cùng nhìn lại một số hình ảnh sống động, hiếm có ghi lại khoảnh khắc chiến thắng 30/4/1975 lịch sử.
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập
Tiến vào Dinh Độc Lập
Tiến vào Dinh Độc Lập

Các chiến sĩ quân giải phóng đang chạy vào Dinh Độc Lập cắm cờ Cách mạng
Các chiến sĩ quân giải phóng đang chạy vào Dinh Độc Lập cắm cờ Cách mạng
Quân giải phóng tước vũ khí của lực lượng Việt Nam cộng hòa đóng trong Dinh Độc Lập
Quân giải phóng tước vũ khí của lực lượng Việt Nam cộng hòa đóng trong Dinh Độc Lập
Cảnh tháo chạy của binh lính Việt Nam cộng hòa năm 1975
Cảnh tháo chạy của binh lính Việt Nam cộng hòa năm 1975
Nhân viên quân sự Mỹ lên máy bay trực thăng chạy khỏi Sài Gòn
Nhân viên quân sự Mỹ lên máy bay trực thăng chạy khỏi Sài Gòn
Quân giải phóng chiếm sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất
Quân giải phóng chiếm sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất
Quân giải phóng chiếm trụ sở biệt khu thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975
Quân giải phóng chiếm trụ sở biệt khu thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975
Bộ binh và xe tăng quân giải phóng làm chủ hoàn toàn Dinh Độc Lập
Bộ binh và xe tăng quân giải phóng làm chủ hoàn toàn Dinh Độc Lập
Lễ duyệt binh trước Dinh Độc Lập mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng
Lễ duyệt binh trước Dinh Độc Lập mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng
Các tầng lớp nhân dân Sài Gòn đến mừng chiến thắng tại Dinh Độc Lập
Các tầng lớp nhân dân Sài Gòn đến mừng chiến thắng tại Dinh Độc Lập
Nhân dân mừng chiến thắng.
Nhân dân mừng chiến thắng.
Nhân dân mừng chiến thắng.

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Tướng Thước kể về 3 nguyên tắc vàng trong “Binh pháp Đại tướng”


Theo Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, chiến dịch Tây Nguyên đã triệt để áp dụng ba nguyên tắc vàng trong binh pháp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, góp phần quan trọng làm nên dấu son trên trang sử vẻ vang của quân đội ta.






Trong câu chuyện vào một chiều cuối tháng 4, bên ấm trà nóng Trung tướng Nguyễn Quốc Thước – nguyên Tư lệnh Quân khu 4 không khỏi xúc động khi nhớ lại những năm tháng hào hùng của chiến dịch Tây Nguyên lịch sử. Ông kể: “Đến bây giờ tuy đã 39 năm trôi qua, song hồi ức về chiến dịch Tây Nguyên vẫn khiến tôi ám ảnh. Những bữa cơm độn sắn hay bát choáng loãng húp vội trước giờ ra trận, tiếng thở hắt của đồng đội, trên tay vẫn cầm chắc cây súng hướng về phía quân thù… có lẽ là những ký ức hào hùng, bi tráng nhất trong cuộc đời binh nghiệp…”.

“Quả đấm thép" của chiến trường miền Nam

Khi ấy, tướng Thước mang quân hàm Thiếu tá, Tham mưu trưởng mặt trận Tây Nguyên. Thời điểm cuối năm 1973, sau khi Hiệp định Pari (1973) được ký kết, Mỹ buộc phải đơn phương rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, tạo nên cục diện mới. Năm 1974, tướng Thước được thay mặt Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ra Hà Nội báo cáo tình hình và nhận kế hoạch mới. "Sau khi làm việc với Bộ Tổng tham mưu, tôi được gặp bác Giáp tại nhà riêng để nghe lệnh. Lúc ấy, Đại tướng mới điều trị ở Liên Xô về, sức khỏe đang yếu nên tôi báo cáo ngắn gọn, rành mạch tình hình chiến trường và nhiệm vụ đã nhận của Đại tướng Dũng”, Tướng Thước kể.

"Hai ngày sau, tôi chuẩn bị vào chiến trường thì được Đại tướng gọi vào một lần nữa. Tôi vừa đến, Đại tướng nói ngay: Mọi nhiệm vụ và ý định tôi đã nói cả rồi, hôm nay nhắc lại một vấn đề hết sức hệ trọng. Cậu vào báo cáo với Vũ Lăng (Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên) tình hình có thể diễn biến rất mau lẹ, là người tư lệnh chiến trường không phải chờ mệnh lệnh ở Bộ Tổng Tư Lệnh mà phải dám trách nhiệm, hạ quyết tâm hành động ngay. Vấn đề thứ hai đánh vào TP lớn Buôn Ma Thuột phải tổ chức một mũi thọc sâu bằng bộ binh cơ giới, thọc ngay vào sở chỉ huy của địch”.

Riêng kế hoạch tác chiến ở TP Buôn Ma Thuật, Đại tướng vạch rõ: Đây là một thành phố lớn, lại là lần đầu tiên ta tiến công nên phải dùng lực lượng xe tăng, cùng bộ binh thọc sâu vào hang ổ, đầu não của địch chứ không thể tác chiến bên ngoài… Và đúng như dự đoán của Đại tướng, ta nhanh chóng giành được thế trận áp đảo".

Chỉ trong 16 ngày đêm, từ ngày 10/3 đến 25/3/1975, ta hoàn toàn giải phóng 3 tỉnh Tây Nguyên, chiến thắng vang dội vượt ra ngoài dự tính ban đầu. Không dừng lại ở đó, quân ta thừa thắng thực hiện 3 mũi tấn công trên các đường 19, đường 7, đường 24, sau đó tràn xuống vùng Trung Trung Bộ kết hợp cùng lực lượng địa phương, giải phóng Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa, tạo ra một thế chiến lược hoàn toàn áp đảo, đập tan những đơn vị mạnh của địch. Trong thời gian ngắn, hơn 10 vạn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đâu, hơn 60 vạn dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên được giải phóng. Hệ thống phòng thủ chiến lược của quân Ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ bị chia cắt.

Nghệ thuật nghi binh

Theo Tướng Thước, thành công của chiến dịch Tây Nguyên phần lớn là nhờ việc áp dụng ba nguyên tắc vàng trong binh pháp Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tôn trọng đối thủ; không đánh bằng quân số giống như đối thủ; không đánh theo cách đánh đã được chuẩn bị của đối thủ”. Mà hay nhất trong chiến dịch này, theo Tướng Thước chính là nghệ thuật “nghi binh”: “Ngày nay, trong nhiều tài liệu, người ta thường chỉ nhắc đến ngày mở đầu chiến dịch Tây Nguyên là ngày 4/3, nhưng đó chỉ là ngày cắt đường, thực ra cái hay của chiến dịch này chính là “buộc địch phải theo kế hoạch của ta, bỏ chỗ thực mà đánh chỗ hư, đó là cái diệu của việc dùng binh. Kế hoạch này diễn ra từ ngày 1/3/1975”.

Tướng Thước kể, quân địch đóng ở Tây Nguyên với lực lượng rất mạnh, trong khi trên Tây Nguyên ta lại chỉ có 2 sư đoàn, việc phối hợp với lực lượng tăng cường là cực kỳ khó khăn. Ta thực hiện kế hoạch “đánh giả” ở phía bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai) và hút đại bộ phận địch lên đó. Nhận thấy các đài vô tuyến điện của quân ta có thể bị địch định vị bằng công nghệ cao, ta “tương kế tựu kế” đánh lừa địch. Mặc dù đã di chuyển hết quân, nhưng ta vẫn duy trì 3 máy vô tuyến điện như cũ, hàng ngày phát sóng đều đặn các thông tin.

“Đường dây điện thoại cũng được giữ nguyên để đánh lạc hướng. Trong khi địch vẫn đinh ninh quân ta đang đóng ở phía bắc, thì chúng ta với khoảng 3 vạn quân, hàng nghìn xe ô tô, hàng trăm xe pháo binh, xe tăng, cao xạ bí mật đi vào miền nam Tây Nguyên bằng đường hậu phương, giáp biên giới, rất xa tầm kiểm soát của địch. Sau một tháng trời hành quân bí mật, chúng ta từ từ siết chặt vòng vây Buôn Ma Thuột, ngày 10/3, ta bất ngờ tấn công trung tâm đầu não của địch tại đây, gây bất ngờ lớn cho cả Mỹ lẫn Ngụy, khiến đối phương trở tay không kịp”, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nhớ lại.

“Một vạn đồng đội của tôi vẫn đang nằm lại chiến trường”

Là vị tướng tài ba trên chiến trường, đã từng chinh chiến khắp các mặt trận ác liệt, nhưng Trung tướng Nguyễn Quốc Thước cho biết dấu ấn, sự ám ảnh lớn nhất đối với ông không phải là những phút giây chiến thắng, mà chính là hình ảnh những người lính hy sinh trên chiến trận. Theo tướng Thước chỉ tính riêng Quân đoàn 3, vẫn còn hơn 1 vạn liệt sỹ nằm lại tại mặt trận Tây Nguyên mà chưa bốc cất được.

“Sáng ngày 30/4/1975, Quân đoàn 3 đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu chính quyền Sài Gòn. Khi tiến đến trước cổng sân bay, xe tăng của Quân đoàn bị đối phương dùng vũ khí chống tăng từ trên gác bắn xuống. Ba chiếc xe tăng của ta cháy một lúc, 15 chiến sỹ đã anh dũng hy sinh. Bà con ở khu vực lân cận vừa được giải phóng ùa ra, vừa khóc vừa gọi quân giải phóng: “Các chú ơi, cứu các anh trong xe tăng với, cháy hết rồi, chết hết cả rồi…”.

Thời điểm đó lại đang là những giây phút cam go, sinh tử giữa ta và địch, tôi buộc lòng phải ra lệnh tiếp tục tấn công, đánh sâu vào bên trong cơ quan đầu não của địch. Đây là một quyết định khó khăn mà mãi cho đến bây giờ vẫn khiến tôi ám ảnh, day dứt: Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nhưng trong ranh giới mong manh giữa sợi chỉ chiến tranh và hòa bình, vẫn nhiều chiến sỹ phải hy sinh mà chưa kịp chứng kiến giây phút độc lập của toàn dân tộc”, tướng Thước ngậm ngùi.

Trong một trận đánh ở Kontum, khi 36 chiến sỹ của ta đã lọt vào căn cứ của địch thì bị chúng đưa xe tăng bịt cửa, phản công quyết liệt. Là người chỉ huy chiến trường, ông Thước cho đơn vị vào giải cứu đồng đội nhưng càng tiến công, chúng ta càng hi sinh nhiều nên buộc phải dừng trận đánh, chấp nhận mất mát. Năm 1973, trong cuộc trao trả tù binh, gặp lại những người lính năm xưa, anh em đồng đội ôm lấy nhau khóc. Tướng Thước nghẹn ngào: “Tôi có lỗi với các đồng chí khi không cứu được anh em…”. Lúc này các chiến sĩ mới đồng thanh trả lời: “Nếu các thủ trưởng mà còn vào cứu nữa thì sự hi sinh càng nhiều”.

“Để tôi vào được Dinh Độc Lập, biết bao đồng đội đã ngã xuống”


Ông được lịch sử nhắc đến bởi là một trong những người đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập vào thời khắc quan trọng nhất, đánh dấu sự sụp đổ của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng là vị tướng có nhiều “duyên nợ” với Quảng Trị…


Người viết may mắn được gặp gỡ, trò chuyện với Trung tướng, Anh hùng LLVT Phạm Xuân Thệ vào những ngày tháng Tư lịch sử, khi ông cùng đồng đội đến Quảng Trị tham gia lễ cầu siêu, tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trên chiến trường này.
Cứ mỗi lần quay lại Quảng Trị, trong lòng ông lại trào dâng biết bao cảm xúc, thương nhớ, những kỷ niệm về một thời oanh liệt nhưng hết sức gian khó. Bởi trên mảnh đất đau thương này, có biết bao đồng đội của ông đã ngã xuống vì nền hòa bình hôm nay. Những địa danh như: làng Vây; làng Bù; sân bay Tà Cơn với các cao điểm 519, 622, 425, 471, Cu Bốc, động Cô Tiên…đã in sâu trong kí ức của vị tướng già, cũng như những cựu chiến binh khi về thăm lại chiến trường xưa.
“Để tôi vào được Dinh Độc lập, biết bao đồng đội đã ngã xuống”
Trung tướng, Anh hùng LLVT Phạm Xuân Thệ tham gia lễ cầu siêu tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống


Trung tướng Phạm Xuân Thệ (SN 1947, tại Khả Phong, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam). Ông lên đường nhập ngũ năm 1967, đến tháng 4/1968 được điều động bổ sung vào chiến đấu tại chiến trường Khe Sanh - Quảng Trị. Lúc đó, ông Thệ mới chỉ là một chiến sĩ thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
Tháng 5/1968, ông tham gia trận đánh đầu tiên tại cao điểm 425, Bắc đường 9 Khe Sanh, Hướng Hóa. Có thể nói rằng, chiến trường Khe Sanh đã tạo nên dấu ấn trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Từ một chàng trai trẻ mang trên mình biết bao hoài bão, khát vọng đất nước được hòa bình, thống nhất, ông Thệ và đồng đội đã lập nên nhiều chiến công. Nhưng, cũng tại mảnh đất này đã có biết bao đồng đội của ông đã ngã xuống, máu của những người lính trẻ đã hòa vào lòng đất mẹ.
Trung tướng Thệ hồi tưởng lại: “Lúc tôi được bổ sung vào chiến trường Quảng Trị, mới chỉ là một chiến sĩ, thanh niên miền Bắc, vừa trải qua 6 tháng huấn luyện, mang khí thế và khát khao chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước. Vào đến đây tôi mới thực sự hiểu rằng chiến trường rất ác liệt, không lúc nào im tiếng bom rơi. Chỉ mong 1 phút, một giây để tĩnh tâm. Khi đang chờ bước vào trận đánh, một loạt bom B52 đánh vào Sở chỉ huy của Sư đoàn 304, khiến 1 chính ủy và phó chính ủy bị thương nặng. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng bản thân phải phấn đấu hết mình để hoàn thành nhiệm vụ chứ không dám nghĩ đến mình được làm tướng như hôm nay”.
Kết thúc chiến dịch Khe Sanh năm 1969, ông quay ra Quảng Bình huấn luyện và sau đó quay lại Khe Sanh chiến đấu. Năm 1970, ông được cấp trên tin tưởng giao trọng trách làm Đại đội trưởng, chỉ huy trận đánh tại cao điểm động Cô Tiên. Tại đây, lần đầu tiên một tiểu đoàn của Quân khu Trị - Thiên đã tiêu diệt gọn một tiểu đoàn trang bị hiện đại và Sở chỉ huy của ngụy quân Sài Gòn vừa nhảy dù xuống động Cô Tiên, Khe Sanh.
Suốt 5 năm trời tham gia chiến đấu tại khắp chiến trường Quảng Trị với những trận đánh lớn trong chiến dịch Nam Lào (1971). Năm 1972, ông là Tiểu đoàn phó chỉ huy trận đánh giải phóng Đông Hà, rồi thị xã Quảng Trị…Và cũng từ đây, mảnh đất Quảng Trị đã gắn liền với bước chân trưởng thành của ông trong cuộc đời binh nghiệp.
Dẫu biết rằng chiến tranh là khốc liệt, là phải đổ máu nhưng trong tâm khảm ông vẫn cảm thấy hết sức day dứt. “Từng tham gia nhiều trận đánh, nhưng trong lòng tôi, những ngày sống và chiến đấu tại chiến trường  Quảng Trị mãi in đậm không bao giờ quên. Rất nhiều đồng đội của tôi đã ngã xuống và phần lớn đều đang độ tuổi 20. Các anh sinh ra đều được đặt tên, đều ra đi từ một làng quê yên bình với khát vọng cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước. Lúc ngã xuống, máu của các anh, các chị đã thấm vào từng nhành cây, ngọn cỏ, tấc đất để từ đó ươm mầm cho sự sống và hoà bình độc lập ngày hôm nay. Các anh nằm đó, những hàng bia mộ thẳng tắp như hình ảnh của những đoàn quân ngày nào xung trận. Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ các anh, các chị ngã xuống âm thầm cống hiến cho quê hương. Mỗi khi về lại Quảng Trị mảnh đất có hàng ngàn ngôi mộ liệt sỹ chưa có tên tuổi tôi lại thấy lòng mình đau như cắt…” – tướng Thệ bùi ngùi.
“Để tôi vào được Dinh Độc lập, biết bao đồng đội đã ngã xuống”
Hàng năm ông đều trở lại mảnh đất Quảng Trị, chiến trường xưa kia ông trực tiếp cầm súng chiến đấu để tìm hài cốt đồng đội

Sau ngày đất nước giải phóng, ông Thệ cũng nhiều lần quay lại chiến trường xưa để thắp nén tâm nhang trước những đồng đội đã ngã xuống. Cũng như lần này, quay lại Quảng Trị, thấy được sự hồi sinh mạnh mẽ từ “vùng đất chết”, lòng ông cũng tràn ngập sự vui sướng. Tướng Thệ cho biết: “Trong chiến tranh cho dù Mỹ - Ngụy rải xuống nơi này bao nhiêu bom đạn thì chúng ta vẫn sống, chiến đấu và lạc quan về ngày mai tươi sáng. Ngày hôm nay Khe Sanh, Hướng Hoá đã vươn mình đi lên từ những vết thương nham nhở của chiến tranh. Bản thân tôi cũng như các đồng đội thấy vinh dự và tự hào vì đã sống, chiến đấu và cống hiến cho mảnh đất này…”.
Là một trong những người đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập, bắt gọn cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và trực tiếp áp giải Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh đọc tuyên bố đầu hàng vào thời khắc lịch sử 30/4/1975, ông cũng được lịch sử nhắc đến như là một nhân vật nổi bật của ngày chiến thắng.
Nhớ lại ngày đó, tướng Thệ bồi hồi: “Ngày 30/4/1975 là ngày không thể nào quên trong cuộc đời tôi. Nhiều lần, tôi đã cận kề cái chết trong các trận đánh nhưng may mắn được sống sót đến giây phút cuối cùng, được chứng kiến ngày đất nước thống nhất. Đó là một điều may mắn đối với tôi. Tuy nhiên, để tôi có được cơ hội vào Dinh Độc Lập làm nhiệm vụ, biết bao đồng đội đã mất đi mạng sống. Có nhiều người hy sinh ngay khi chiến thắng đã cận kề, họ mới xứng đáng là người được nhắc đến nhiều nhất”.
“Để tôi vào được Dinh Độc lập, biết bao đồng đội đã ngã xuống”
Đại úy Phạm Xuân Thệ (bên phải) cùng đồng đội vào Dinh Độc Lập - cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (Ảnh tư liệu)

Hiện nay, mặc dù đã nghỉ hưu nhưng tướng Thệ vẫn là Trưởng ban liên lạc Cựu chiến binh sư đoàn 304; Phó ban liên lạc Quân khu Trị Thiên. Với mong muốn đưa những người đồng đội đang nằm rải rác trên những cánh rừng xa xôi về với đất mẹ quê hương, hằng năm, ông đều trở lại các chiến trường Quảng Trị từ 4 - 5 lần, để liên hệ với các cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu tại đây để tìm hài cốt đồng đội.
Nghĩ đến việc những người từng “vào sinh, ra tử” với ông trong những ngày tháng chiến tranh ác liệt. Họ phải nằm lại vĩnh viễn chốn rừng sâu, trong sự mong ngóng, đợi chờ của người thân, gia đình, lòng ông lại bồi hồi, day dứt khôn nguôi.

Gặp người lái chiếc xe đưa Dương Văn Minh đi đầu hàng


Gần 40 năm đã qua nhưng cảm xúc của người lái chiếc xe chở tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh và các thuộc cấp chính quyền Sài Gòn đến Đài phát thanh Sài Gòn để tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vẫn như còn vẹn nguyên.


“Dường như tôi và chiếc xe Jeep mang biển số 15770 ấy có “duyên số” gì với nhau thì phải. Từ lúc nó trở thành chiến lợi phẩm của quân đội ta ở chiến dịch Đà Nẵng đến khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, tôi đều được lái nó. Ngày nay, thỉnh thoảng mọi người cũng nhắc đến tôi trong vai trò người cầm vô lăng của chuyến xe đặc biệt ấy” - ông Đào Ngọc Vân - mở đầu câu chuyện về những kỷ niệm của ngày giải phóng miền Nam 39 năm trước.
Ông Đào Ngọc Vân (sinh năm 1950) là công nhân giao thông của Phòng Thị chính thị xã Thanh Hóa (giống đơn vị trực thuộc Sở Giao thông vận tải bây giờ) từ năm 1970 đến năm 1971. Năm 1972, trước khi xung phong nhập ngũ để vào chiến trường B, ông Vân cũng từng tham gia đội xe giải phóng giao thông cầu Hàm Rồng. Sau một thời gian huấn luyện, tháng 7/1972, chiến sĩ Vân có mặt tại chiến trường Quảng Trị vừa được giải phóng, rồi được biên chế vào đại đội 14, trung đoàn 66, sư đoàn 304 (C14, E66, F304).
Ngay trong lần thử lửa đầu tiên, chiến sĩ Vân đã được tham gia những trận đánh ác liệt tại đường 9 Nam Lào, rồi lần lượt là các chiến trường A Sầu, A Lưới, Thượng Đức, Đại Lộc… Tại chiến trường Đại Lộc, trong số những chiến lợi phẩm mà trung đoàn E66 thu được của địch bỏ lại khi tháo chạy, có chiếc xe Jeep mang biển số 15770.
Gặp người lái chiếc xe đưa Dương Văn Minh đi đầu hàng
Ông Đào Ngọc Vân vẫn còn nhớ như in cảm giác vui sướng khi được lái chiếc xe đưa tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa đi tuyên bố đầu hàng

Ông Vân nhớ lại: “Anh em trong đơn vị không ai biết lái, còn tôi từng lái xe dọc ngang đất Thanh Hóa rồi, nên nhảy ngay lên xe “phóng lượn” vèo vèo. Đồng đội vỗ tay tán thưởng ầm ầm, còn tôi chưa từng được lái chiếc xe nào mà ga số “xịn” như thế, mái xe, thành, vách thoáng như vậy, nên càng “biểu diễn” hăng hơn. Các thủ trưởng trung đoàn thấy vậy cũng vui vẻ cho phép tiểu đội tôi được thu giữ chiếc xe Jeep này để tiếp tục hành quân xuống giải phóng Đà Nẵng”.
“Năm ngoái, khi các đồng đội cũ ở trung đoàn về tìm tôi để cùng tham gia phục dựng chiếc xe Jeep này cho Bảo tàng Quân đội, tôi mới biết, nó là chiếc xe Jeep kiểu M151A2 do Mỹ sản xuất vào những năm của thập kỷ 60 của thế kỷ trước và đưa vào sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1970”.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra ngay sau đó, với khí thế chiến thắng như chẻ tre, đơn vị ông lần lượt vượt qua Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang rồi đến Xuân Lộc, cửa ngõ Sài Gòn. Khoảng 6 giờ sáng ngày 30/4/1975, Trung đoàn 66 cùng với xe tăng của Lữ đoàn xe tăng 203 (Quân đoàn 2) tiến sát cầu Sài Gòn. Phát hiện được lực lượng của ta, địch dùng 8 chiếc xe bọc thép M113 và 4 chiếc xe tăng M41 cùng bộ binh chống trả quyết liệt trên cầu Sài Gòn. Lực lượng xe tăng của Lữ đoàn 203 tập trung binh lực đánh mạnh xe tăng địch. Đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66 nhận lệnh của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 dùng xe Jeep nhanh chóng dẫn đơn vị vượt qua cầu Sài Gòn, thọc sâu vào nội đô cùng phối hợp chiến đấu với các binh đoàn khác.
Ông Đào Ngọc Vân và đồng đội cũ chụp ảnh lưu niệm bên chiếc xe Jeep vừa được phục dựng.
Ông Đào Ngọc Vân và đồng đội cũ chụp ảnh lưu niệm bên chiếc xe Jeep vừa được phục dựng.

“Vẫn tôi là người lái chiếc xe Jeep 15770 đưa đại úy Phạm Xuân Thệ vượt cầu Sài Gòn trong mịt mù khói lửa và ầm ầm đủ loại súng tăng súng máy nổ vang trời. Tôi tăng ga lao nhanh, nhưng do chưa từng vào nội đô bao giờ, nên còn lúng túng khi xác định đường đến mục tiêu cuối cùng - Dinh Độc Lập của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Đại úy Thệ mời một người đàn ông trung niên dáng chắc nịch, mặc áo sơ mi cộc tay, cầm cờ Giải phóng lên xe để chỉ đường. Khi nhìn thấy tòa nhà cao tầng, trên nóc có treo cờ ba sọc, người dẫn đường nói to: “Đó chính là Dinh Độc Lập”.
“Lúc này, chiếc xe tăng 390 của Lữ đoàn 203 đã húc đổ cổng chính của Dinh và lao vào trong. Tôi nhấn ga lái chiếc xe Jeep vượt qua cổng rồi vòng theo đường viền bên phải tiến vào sảnh Dinh, để mọi người nhanh chóng ra khỏi xe, di chuyển lên tầng hai tòa nhà” - ông Đào Ngọc Vân nhớ lại.
“Ít phút sau, tôi được lệnh ra xe để tiếp tục làm nhiệm vụ. Lúc đó là 10 giờ 30 phút. Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ và cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới cùng trung úy Phùng Bá Đam, trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi mới biết người béo ục ịch, đeo kính trắng, đi giầy đen ngồi ngay bên cạnh mình là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ comple, sơ mi trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu.
Ông Vân (bên phải) và trung tướng Phạm Xuân Thệ
Ông Vân (bên phải) và trung tướng Phạm Xuân Thệ

Xe ra khỏi tòa nhà, theo chỉ dẫn của một thanh niên mặc áo trắng trạc 35 tuổi đứng ngay phía ngoài tay lái, trên bậc cửa xe, chúng tôi đến Đài phát thanh Sài Gòn chỉ sau ít phút đồng hồ… Vào lúc 11giờ 30 phút ngày 30/4/1975, các loa phóng thanh Sài Gòn cùng phát lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh”.
“Gần 40 năm đã đi qua nhưng những hình ảnh, những thanh âm của cái ngày lịch sử hôm đó vẫn còn in dấu vẹn nguyên trong trí nhớ của tôi, từng lời Tổng thống Dương Văn Minh nói, tôi nhớ từng câu, từng chữ: “Tôi, Đại tướng Dương n Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi quân lực cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân giải phóng miền Nam –Việt Nam. Tôi tuyên bố, chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam - Việt Nam”.
“Lúc đó, tôi nhảy ra khỏi xe, mừng vui đến trào nước mắt, ôm lấy đồng đội và nhân dân bên đường mà hét to lên rằng: “Giải phóng hoàn toàn miền Nam rồi”. Cả thành phố cũng sôi động trong tiếng reo hò không ngớt”.
Sau ngày thống nhất đất nước, ông Vân trở về với cuộc sống thường nhật ở quê nhà, bên vợ con tại phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. Đến một ngày đầu năm 2008, khi Bảo tàng Lịch sử Quân đội Việt Nam phục dựng chiếc xe Jeep của thời khắc lịch sử ấy, ông Đào Ngọc Vân cung cấp thêm một tư liệu rất quý, bức ảnh ông chụp kỷ niệm với anh Phùng Bá Đam bên cạnh chiếc xe Jeep tại Sài Gòn vào tháng 8/1975. Phóng to bức ảnh, xác định được trên biển xe có một ngôi sao trắng và một dãy số 1577…, Viện Kỹ thuật hình sự (Bộ Công an) đã giám định và xác định được số 0 nằm ở cuối. Và chiếc xe Jeep “lùn”, kiểu M151A2 mang biển số 15770 đã được phục dựng thành công, như một chứng tích của lịch sử…

Phi công Mỹ khẳng định tìm thấy máy bay mất tích MH370


Một phi công Mỹ tin rằng ông đã tìm thấy xác chiếc máy bay mất tích MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines sau khi rà soát hàng nghìn bức ảnh vệ tinh trên mạng.


Ông Michael Hoebel.
Ông Michael Hoebel.
 
Ông Michael Hoebel, ở New York, Mỹ đã dành nhiều giờ để xem xét hàng nghìn bức ảnh vệ tinh được đăng tải công khai trên TomNod.com, trang web chuyên chia sẻ các hình ảnh vệ tinh, trước khi tình cờ phát hiện hình ảnh mà ông tin là xác chuyến máy bay xấu số MH370.
 
Viên phi công 60 tuổi đã tìm thấy các bức ảnh chụp một chiếc máy bay nằm dưới nước ngay ngoài khơi bờ biển đông bắc Malaysia và phía tây tỉnh Songkhla tại Thái Lan mà ông nói Hoebel là hoàn toàn phù hợp với kích thước của chiếc Boeing 777 mất tích.
 
Bức ảnh mà ông Hoebel tin là chụp chiếc máy bay mất tích MH370.
Bức ảnh mà ông Hoebel tin là chụp chiếc máy bay mất tích MH370.
 
Nếu nhận định của ông Hoebel được chứng minh là chính xác, chiếc máy bay dường như vẫn còn nguyên vẹn vào thời điểm các bức ảnh vệ tinh được chụp ít ngày sau khi MH370 mất tích gần 2 tháng trước.
“Tôi rất bất ngờ vì không tin có thể tìm thấy nó”, ông Hoebel nói với kênh truyền hình WIVB.
So sánh bức ảnh đáng ngờ với bức ảnh chụp chiếc máy bay của Malaysia Airlines, ông Hoebel nói: “Vùng màu sáng là nơi cánh nối với thân - Các bạn có thể nhìn thấy vùng màu sáng trong bức ảnh này”.
 
Ông Hoebel đã rà soát hàng nghìn bức ảnh vệ tinh và tình cờ phát hiện bức ảnh này.
Ông Hoebel đã rà soát hàng nghìn bức ảnh vệ tinh và tình cờ phát hiện bức ảnh này.
Khi được hỏi rằng liệu đó có phải là một con cá mập, ông Hoebel hài hước đáp: “Đó là một con cá mập dài 64 m!”.

Ông Hoebel cho biết ông đã liên lạc với Cơ quan an toàn giao thông quốc gia Mỹ (NTSB) và Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) nhưng chưa nhận được phản hồi.
Thông tin trên được đưa ra trong bối cảnh giới chức Úc cho biết nhiều khả năng không tìm thấy chiếc máy bay mất tích.
 
Ông Hoebel đã rà soát hàng nghìn bức ảnh vệ tinh và tình cờ phát hiện bức ảnh này.
Nếu khẳng định của ông Hoebel được chứng minh là đúng, chiếc máy bay dường như vẫn còn nằm nguyên vẹn dưới nước.
7 tuần sau khi chiếc Boeing 777 của Malaysia biến mất cùng 239 người trên khoang, Thủ tướng Úc Tony Abbott ngày 28/4 cho hay cuộc tìm kiếm MH370 giờ đây sẽ bước sang một giai đoạn mới, tập trung vào một khu vực lớn hơn dưới đáy Ấn Độ Dương. Giai đoạn tìm kiếm này dự kiến kéo dài từ 6-8 tháng, tiêu tốn khoảng 60 triệu USD.
Trong khi đó, Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera ngày 28/4 cho biết nước này sẽ ngừng tham gia tìm kiếm chiếc máy bay mất tích MH370.
 
Điểm chấm đỏ là nơi ông Hoebel tin có xác máy bay MH370.
Điểm chấm đỏ là nơi ông Hoebel tin có xác máy bay MH370.