Ông được lịch sử nhắc đến bởi là một trong những
người đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập vào thời khắc quan trọng nhất,
đánh dấu sự sụp đổ của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng là vị
tướng có nhiều “duyên nợ” với Quảng Trị…
Người viết may
mắn được gặp gỡ, trò chuyện với Trung tướng, Anh hùng LLVT Phạm Xuân Thệ
vào những ngày tháng Tư lịch sử, khi ông cùng đồng đội đến Quảng Trị
tham gia lễ cầu siêu, tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trên chiến
trường này.
Cứ mỗi lần quay lại
Quảng Trị, trong lòng ông lại trào dâng biết bao cảm xúc, thương nhớ,
những kỷ niệm về một thời oanh liệt nhưng hết sức gian khó. Bởi trên
mảnh đất đau thương này, có biết bao đồng đội của ông đã ngã xuống vì
nền hòa bình hôm nay. Những địa danh như: làng Vây; làng Bù; sân bay Tà
Cơn với các cao điểm 519, 622, 425, 471, Cu Bốc, động Cô Tiên…đã in sâu
trong kí ức của vị tướng già, cũng như những cựu chiến binh khi về thăm
lại chiến trường xưa.
Trung tướng, Anh hùng LLVT Phạm Xuân Thệ tham gia lễ cầu siêu tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống
Trung tướng Phạm Xuân
Thệ (SN 1947, tại Khả Phong, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam). Ông lên đường
nhập ngũ năm 1967, đến tháng 4/1968 được điều động bổ sung vào chiến
đấu tại chiến trường Khe Sanh - Quảng Trị. Lúc đó, ông Thệ mới chỉ là
một chiến sĩ thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
Tháng 5/1968, ông tham
gia trận đánh đầu tiên tại cao điểm 425, Bắc đường 9 Khe Sanh, Hướng
Hóa. Có thể nói rằng, chiến trường Khe Sanh đã tạo nên dấu ấn trong cuộc
đời binh nghiệp của ông. Từ một chàng trai trẻ mang trên mình biết bao
hoài bão, khát vọng đất nước được hòa bình, thống nhất, ông Thệ và đồng
đội đã lập nên nhiều chiến công. Nhưng, cũng tại mảnh đất này đã có biết
bao đồng đội của ông đã ngã xuống, máu của những người lính trẻ đã hòa
vào lòng đất mẹ.
Trung tướng Thệ hồi
tưởng lại: “Lúc tôi được bổ sung vào chiến trường Quảng Trị, mới chỉ là
một chiến sĩ, thanh niên miền Bắc, vừa trải qua 6 tháng huấn luyện, mang
khí thế và khát khao chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước.
Vào đến đây tôi mới thực sự hiểu rằng chiến trường rất ác liệt, không
lúc nào im tiếng bom rơi. Chỉ mong 1 phút, một giây để tĩnh tâm. Khi
đang chờ bước vào trận đánh, một loạt bom B52 đánh vào Sở chỉ huy của Sư
đoàn 304, khiến 1 chính ủy và phó chính ủy bị thương nặng. Lúc đó, tôi
chỉ nghĩ rằng bản thân phải phấn đấu hết mình để hoàn thành nhiệm vụ chứ
không dám nghĩ đến mình được làm tướng như hôm nay”.
Kết thúc chiến dịch Khe
Sanh năm 1969, ông quay ra Quảng Bình huấn luyện và sau đó quay lại Khe
Sanh chiến đấu. Năm 1970, ông được cấp trên tin tưởng giao trọng trách
làm Đại đội trưởng, chỉ huy trận đánh tại cao điểm động Cô Tiên. Tại
đây, lần đầu tiên một tiểu đoàn của Quân khu Trị - Thiên đã tiêu diệt
gọn một tiểu đoàn trang bị hiện đại và Sở chỉ huy của ngụy quân Sài Gòn
vừa nhảy dù xuống động Cô Tiên, Khe Sanh.
Suốt 5 năm trời tham
gia chiến đấu tại khắp chiến trường Quảng Trị với những trận đánh lớn
trong chiến dịch Nam Lào (1971). Năm 1972, ông là Tiểu đoàn phó chỉ huy
trận đánh giải phóng Đông Hà, rồi thị xã Quảng Trị…Và cũng từ đây, mảnh
đất Quảng Trị đã gắn liền với bước chân trưởng thành của ông trong cuộc
đời binh nghiệp.
Dẫu biết rằng chiến
tranh là khốc liệt, là phải đổ máu nhưng trong tâm khảm ông vẫn cảm thấy
hết sức day dứt. “Từng tham gia nhiều trận đánh, nhưng trong lòng tôi,
những ngày sống và chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị mãi in đậm
không bao giờ quên. Rất nhiều đồng đội của tôi đã ngã xuống và phần lớn
đều đang độ tuổi 20. Các anh sinh ra đều được đặt tên, đều ra đi từ một
làng quê yên bình với khát vọng cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước.
Lúc ngã xuống, máu của các anh, các chị đã thấm vào từng nhành cây, ngọn
cỏ, tấc đất để từ đó ươm mầm cho sự sống và hoà bình độc lập ngày hôm
nay. Các anh nằm đó, những hàng bia mộ thẳng tắp như hình ảnh của những
đoàn quân ngày nào xung trận. Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
các anh, các chị ngã xuống âm thầm cống hiến cho quê hương. Mỗi khi về
lại Quảng Trị mảnh đất có hàng ngàn ngôi mộ liệt sỹ chưa có tên tuổi tôi
lại thấy lòng mình đau như cắt…” – tướng Thệ bùi ngùi.
Hàng năm ông đều trở lại mảnh đất Quảng Trị, chiến trường xưa kia ông trực tiếp cầm súng chiến đấu để tìm hài cốt đồng đội
Sau ngày đất nước giải
phóng, ông Thệ cũng nhiều lần quay lại chiến trường xưa để thắp nén tâm
nhang trước những đồng đội đã ngã xuống. Cũng như lần này, quay lại
Quảng Trị, thấy được sự hồi sinh mạnh mẽ từ “vùng đất chết”, lòng ông
cũng tràn ngập sự vui sướng. Tướng Thệ cho biết: “Trong chiến tranh cho
dù Mỹ - Ngụy rải xuống nơi này bao nhiêu bom đạn thì chúng ta vẫn sống,
chiến đấu và lạc quan về ngày mai tươi sáng. Ngày hôm nay Khe Sanh,
Hướng Hoá đã vươn mình đi lên từ những vết thương nham nhở của chiến
tranh. Bản thân tôi cũng như các đồng đội thấy vinh dự và tự hào vì đã
sống, chiến đấu và cống hiến cho mảnh đất này…”.
Là một trong những
người đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập, bắt gọn cơ quan đầu não của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và trực tiếp áp giải Tổng thống Dương Văn
Minh đến Đài phát thanh đọc tuyên bố đầu hàng vào thời khắc lịch sử
30/4/1975, ông cũng được lịch sử nhắc đến như là một nhân vật nổi bật
của ngày chiến thắng.
Nhớ lại ngày đó, tướng
Thệ bồi hồi: “Ngày 30/4/1975 là ngày không thể nào quên trong cuộc đời
tôi. Nhiều lần, tôi đã cận kề cái chết trong các trận đánh nhưng may mắn
được sống sót đến giây phút cuối cùng, được chứng kiến ngày đất nước
thống nhất. Đó là một điều may mắn đối với tôi. Tuy nhiên, để tôi có
được cơ hội vào Dinh Độc Lập làm nhiệm vụ, biết bao đồng đội đã mất đi
mạng sống. Có nhiều người hy sinh ngay khi chiến thắng đã cận kề, họ mới
xứng đáng là người được nhắc đến nhiều nhất”.
Đại úy Phạm Xuân Thệ (bên phải) cùng đồng đội vào Dinh Độc Lập - cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (Ảnh tư liệu)
Hiện nay, mặc dù đã
nghỉ hưu nhưng tướng Thệ vẫn là Trưởng ban liên lạc Cựu chiến binh sư
đoàn 304; Phó ban liên lạc Quân khu Trị Thiên. Với mong muốn đưa những
người đồng đội đang nằm rải rác trên những cánh rừng xa xôi về với đất
mẹ quê hương, hằng năm, ông đều trở lại các chiến trường Quảng Trị từ 4 -
5 lần, để liên hệ với các cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu tại
đây để tìm hài cốt đồng đội.
Nghĩ đến việc những
người từng “vào sinh, ra tử” với ông trong những ngày tháng chiến tranh
ác liệt. Họ phải nằm lại vĩnh viễn chốn rừng sâu, trong sự mong ngóng,
đợi chờ của người thân, gia đình, lòng ông lại bồi hồi, day dứt khôn
nguôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét