Cuộc chiến giá dầu giữa OPEC và Mỹ đang diễn ra rất quyết liệt. Do vậy, liệu thế giới có chứng kiến một lần nữa sự chuyển giao quyền lực định giá dầu mỏ hay không? Quyền lực định giá dầu mỏ trong thời gian tới sẽ trong tay ai?
Trong lịch sử giá dầu mỏ trên thế giới, quyền lực định giá dầu đã trải qua các giai đoạn. Thứ nhất, trước năm 1930 là giai đoạn thị trường tự do. Thứ hai, giai đoạn từ 1930 đến 1972 do Mỹ quyết định thông qua tổ chức có tên gọi Texas Railroad Commission (TRC). Thứ ba, giai đoạn từ 1973 đến nay do Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) quyết định. Vấn đề là từ giữa năm 2014 đến nay, giá dầu giảm mạnh ngoài ý muốn của OPEC và trên thực tế OPEC không kiểm soát được.
Chắc chắn rằng, giá 
dầu mỏ thế giới liên quan tới nhiều yếu tố địa chính trị, chủ 
quan và khách quan nên khó có thể bao quát toàn diện mọi khía cạnh 
một cách đầy đủ, dưới đây là một số thông tin và phân tích có cơ sở 
thực tế.
Dầu mỏ trên thế giới 
đã được khai thác từ rất lâu và ban đầu chủ yếu khai thác và tiêu thụ
 ở nước Mỹ. Trong giai đoạn từ cuối thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XX, 
trên thế giới sản lượng dầu mỏ chủ yếu do 7 công ty nắm giữ. 7 công
 ty này (còn gọi là “Seven Sisters”) là Ango-Petroleum Oil Company (bây
 giờ là BP), Gulf Oil, Standard Oil of California (SoCal), Texasco (bây 
giờ là Chevron), Royal Dutch Shell, Standard Oil of New Jersey (Esso) và
 Standard Oil of New York (Socony).
Biếm họa về cuộc chiến giá dầu giữa Arập Xêút và Mỹ (Nguồn: The Economist (Anh))
Trước năm 1960, Seven 
Sisters kiểm soát tới 85% trữ lượng dầu mỏ trên thế giới. Tuy nhiên, 
quyền lực định giá dầu mỏ từ 1931 đến năm 1972 lại do TRC quyết 
định. TRC được thành lập năm 1891 tại Texas, Mỹ ban đầu không liên 
quan nhiều đến dầu mỏ. Năm 1931 do có sự bùng nổ về sản lượng
 khai thác dầu mỏ ở miền Đông Texas làm cho giá dầu giảm xuống
 còn 25 cent/thùng nên Thống đốc Bang Texas khi đó đã quyết định
 trao cho TRC quyền điều phối sản lượng khai thác cho các công ty
 dầu để ổn định giá dầu mỏ.
Trong thập niên 70 của
 thế kỷ trước, quyền lực định giá dầu mỏ của TRC bị giảm sút 
mạnh do sự xuất hiện của OPEC và sự phát triển của các công ty 
dầu khí quốc gia. OPEC được thành lập năm 1960, ban đầu có 5 thành 
viên sáng lập là Iran, Iraq, Kuwait, Arập Xêút và Venezuela. Trong những
 phiên họp đầu tiên, OPEC đã phân công 2 thành viên chuyên nghiên cứu 
phương pháp kiểm soát giá dầu của TRC bằng việc điều tiết sản lượng 
khai thác. Vào cuối năm 1971, có thêm 6 thành viên tham gia OPEC gồm 
Qatar, Indonesia, Libya, Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Algeria và 
Nigeria.
Sau hơn một thập niên
 từ khi thành lập, OPEC đã từng bước khẳng định vị thế của mình 
về quyền lực trong định giá dầu mỏ trên thế giới. Qua tổng hợp
 và phân tích giá dầu giai đoạn trước năm 1970, OPEC đã nhận ra 
rằng nhu cầu về dầu mỏ tăng nhưng giá dầu mỏ lại giảm tới 30%. Vào 
tháng 3/1971, lần đầu tiên TRC cho phép khai thác 100% công suất các 
mỏ dầu, nghĩa là TRC không còn nắm giữ được con bài sản lượng 
để điều tiết giá dầu được nữa trong khi OPEC lại đang lớn mạnh
 không ngừng.
Năm 1971, công suất 
khai thác dầu mỏ ở Mỹ đã đạt mức cực đại vì thế Mỹ đã mất công cụ để 
định giá trần dầu mỏ. Điều này đồng nghĩa với việc quyền lực kiểm soát 
giá dầu đã được chuyển từ Mỹ sang OPEC. Năm 1973, để phản đối Mỹ và
 các nước phương Tây ủng hộ Ixraen, OPEC đã áp dụng lệnh cấm 
vận dầu mỏ làm cho giá dầu mỏ thế giới tăng gần 4 lần so với
 trước đó (hình 1). Từ đó cho đến thời gian gần đây, OPEC ngày 
càng mở rộng ảnh hưởng của mình vào thị trường dầu mỏ toàn cầu.
Cũng giống như các 
mặt hàng thông thường khác, giá dầu mỏ bị chi phối bởi quy 
luật cung cầu với chu kỳ có thể kéo dài tới vài năm. Trong 
phần lớn thời gian của thế kỷ XX, giá dầu mỏ tại thị trường 
Mỹ bị chi phối nặng nề từ việc kiểm soát sản lượng hoặc 
kiểm soát giá. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giá dầu đầu 
giếng tại Mỹ trung bình 28,52 USD/thùng (tính theo USD năm 2010) 
trong khi giá trung bình thế giới gần 30,54 USD/thùng. Lịch sử 
cho thấy những đợt giá dầu tăng cao đều gắn liền với sự bất 
ổn ở Trung Đông; chính sách kiểm soát giá dầu và cấm xuất 
khẩu dầu của Mỹ đã kìm hãm việc thăm dò, khai thác dầu trong 
nước làm cho Mỹ phụ thuộc nhiều vào nguồn dầu Trung Đông và 
Venezuela; đồng thời OPEC đã sử dụng quota sản lượng dầu một 
cách hữu hiệu để định giá dầu mỏ thế giới.
Hiện tại, giá dầu 
mỏ giảm rất nhanh từ trên 100USD/thùng còn dưới 50USD/thùng và 
mấy ngày qua, có “nhúc nhích” lên 52-53USD/thùng. Đánh giá chung cho 
thấy có 5 yếu tố ảnh hưởng tới việc giảm giá dầu mỏ thế 
giới là:
Sản lượng dầu khai thác ở Hoa Kỳ bùng nổ mạnh mẽ
Trong những năm gần 
đây, các công ty dầu ở Mỹ đã thành công trong việc khai thác 
dầu mỏ và khí đốt từ đá phiến làm cho sản lượng khai thác 
dầu mỏ ở Mỹ tăng mạnh mẽ (hình 2). Thực tế, Mỹ đang chuyển 
đổi từ một quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thành quốc gia hàng
 đầu về khai thác dầu mỏ. Sản lượng dầu mỏ tại Mỹ tăng rất 
nhanh tập trung từ 7 khu vực là: Bakken Region, Eagle Ford Region, 
Haynesville Region, Marcellus Region, Niobrara Region, Permian Region, 
và Utica Region. Tính từ 2007 đến 2014, sản lượng dầu mỏ từ 7 
khu vực này tăng khoảng 4 triệu thùng/ngày. Mỹ đang thách thức 
các nhà khổng lồ là Arập Xêút và Nga về sản lượng dầu mỏ. 
Kết quả này là nhờ Mỹ đã thành công trong công nghệ khoan khai 
thác dầu khí từ đá phiến.
Biểu đồ sản lượng khai thác dầu mỏ và condensate của 15 quốc gia
Tính từ năm 2005, 
ngoài OPEC thì khu vực Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) và Nga là có khả 
năng tăng nguồn cung về dầu mỏ. Hiện tại, quá nửa các thành 
viên OPEC sản lượng đang giảm. Trong 10 năm vừa qua, đã có thêm 
nhiên liệu sinh học nhưng rất hạn chế vì vấn đề an ninh lương 
thực.
Tuy nhiên, do giá dầu
 thấp, năm 2015 nhiều công ty thăm dò khai thác dầu khí Mỹ sẽ 
phải cắt giảm trên 30% chi phí. Vì vậy chắc chắn sẽ tác động 
mạnh tới nguồn cung trong thời gian tới theo hướng giảm. Qua 
tính toán cho thấy sản lượng khai thác sẽ tăng chậm hơn so với 
những năm vừa qua.
OPEC và Nga không giảm sản lượng
OPEC cung cấp khoảng 
40% lượng dầu mỏ trên thế gới, trong đó Arập Xêút chiếm gần 1/3 
nên có ảnh hưởng lớn tới thị trường dầu mỏ thế giới. Chủ 
trương hiện nay của Arập Xêút là không chấp nhận mất thị trường,
 tạm thời chấp nhận giá dầu thấp để các nhà sản xuất dầu 
có chi phí cao phải đóng cửa và giá dầu sẽ tăng trở lại. 
Trong khi đó một số thành viên khác của OPEC lại muốn cắt giảm
 sản lượng để tăng giá dầu. Tại kỳ họp vào tháng 11/2014, OPEC
 đã quyết định giữ nguyên sản lượng khai thác và các động 
thái gần đây cho thấy Arập Xêút sẵn sàng để cho các thành viên 
khác của OPEC khổ sở vì giá dầu thấp cho tới kỳ họp tới vào
 tháng 6/2015.
Đồng thời, Nga là 
nước có sản lượng khai thác lớn nhất cũng cương quyết duy trì 
khả năng khai thác tối đa của mình nên không có cửa cho việc 
giảm nguồn cung. Đa số các phân tích cho rằng Arập Xêút đang 
chịu đựng để ép cắt giảm sản lượng từ khai thác dầu đá 
phiến tại Mỹ nơi có giá thành tương đối cao. Một số khác thì 
tin là Arập Xêút đang thỏa thuận ngầm với Mỹ để phá vỡ nền 
kinh tế của Nga, Iran và Venezuela. Nhìn tổng thể, nếu như giá 
dầu mỏ thấp và kéo dài thì nó sẽ làm cho tất cả các vấn 
đề nói trên trở thành hiện thực, kể cả Arập Xêút cũng không 
thể cân đối được ngân sách khi giá dầu cần cho họ là trên 90 
USD/thùng.
Cầu ở châu Á, châu Âu đã giảm
Trong khi nguồn cung 
tăng nhanh thì cầu từ các nước đang phát triển sử dụng nhiều 
năng lượng như Trung Quốc (thứ hai thế giới), Ấn Độ (thứ tư thế
 giới) lại giảm. Khủng hoảng toàn cầu đã làm nhu cầu về dầu 
mỏ ở châu Á giảm mạnh hơn tính toán, trong khi phần lớn chính 
phủ các nước ở châu Á lại cắt giảm trợ giá xăng dầu. Tại 
châu Âu, nhu cầu xăng dầu cũng giảm. Thống kê cho thấy, nửa đầu 
của mỗi năm cầu luôn giảm và tăng vào thời gian còn lại nhưng 
tổng thể cầu năm sau cao hơn năm trước. Do vậy, mất cân đối cung 
cầu vẫn tiếp tục cho tới khi OPEC họp định kỳ vào tháng 6 năm 
2015.
Đồng đôla Mỹ tăng mạnh
Dầu mỏ được định 
giá và giao dịch bằng tiền đôla Mỹ trên toàn cầu. Hiện tại 
đôla Mỹ đang rất mạnh so với các đồng tiền khác nên giá dầu ở
 ngoài nước Mỹ cho thấy đắt hơn và dẫn tới nhu cầu dầu giảm 
theo. Cùng với nguồn cung dầu đá phiến từ Mỹ tăng lên, lực cầu yếu ớt ở
 khu vực Á - Âu, đồng USD mạnh đang đẩy dầu mỏ giảm giá sâu hơn nữa.
Libya và Iraq đang tăng sản lượng khai thác dầu
Hiện tại, Libya, 
Iraq, Nam Sudan và Nigeria đang trở lại ổn định sản lượng khai 
thác dầu ở mức tăng dần. Các nước này đang rất cần tiền để 
khôi phục nền kinh tế nên họ sẽ cố gắng duy trì mức khai thác 
cao nhất có thể làm cho tổng nguồn cung tiếp tục tăng. Tuy 
nhiên, tình hình chính trị tại các quốc gia này vẫn là vấn 
đề đáng quan ngại có thể ảnh hưởng tới việc giảm đột ngột 
sản lượng khai thác do xung đột chính trị.
Như trên chúng ta 
thấy, trong 5 yếu tố tác động làm cho giá dầu mỏ giảm nhanh 
thì có 3 yếu tố tác động tới nguồn cung và 2 yếu tố tác 
động tới cầu. Trong 3 yếu tố tác động vào cung thì yếu tố 
thứ nhất sẽ được Chính phủ Mỹ khuyến khích tăng tối đa sản 
lượng dầu khai thác. Tuy nhiên, yếu tố nguồn cung từ OPEC sẽ 
xảy ra theo hướng ngược lại, OPEC sẽ phải cắt giảm để nâng giá
 dầu mỏ.
Hiện tại, cung đang 
vượt cầu khoảng 2 triệu thùng/ngày và độ lệch này có thể 
được cân bằng từ ba yếu tố. Một là cầu chắc chắn sẽ tăng trở 
lại từ thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Hai là cung sẽ giảm do 
một số công ty dầu không chịu được giá dầu thấp. Ba là OPEC sẽ 
đưa ra quyết định cắt giảm sản lượng trong phiên họp tới (thực 
tế tháng 1-2009, OPEC đã cắt 4,2 triệu thùng/ngày). Tuy nhiên, 
nhiều quốc gia đang tranh thủ giá dầu thấp để tích trữ trong 
kho dự trữ của mình nên kể cả khi cung cầu ở mức cân bằng thì
 giá dầu cũng sẽ chưa tăng ngay mà có độ trễ nhất định. Dù 
sao nhìn tổng thể thì chu kỳ giảm giá dầu lần này xét từ 
các yếu tố tác động vào cung và cầu đều không thể kéo dài. 
Nhìn lại chu kỳ giá dầu thấp vào năm 1985 và năm 2008 thì lần 
giảm giá dầu này có nhiều nét tương đồng với hai lần trước.
Mỹ đang bằng mọi 
cách để tối đa sản lượng dầu khai thác trong nước nhằm tự cân 
đối nhu cầu dầu mỏ của Hoa Kỳ, giảm sự phụ thuộc vào dầu 
Trung Đông, Venezuela. Nhìn tổng thể, nỗ lực của Mỹ trong những 
năm vừa qua trong việc giảm phụ thuộc vào dầu nhập khẩu đã 
đạt được những kết quả nhất định. Trong cuộc chiến này, Mỹ 
đã đạt được cả hai mục tiêu khi giá dầu thấp là kinh tế Mỹ 
tăng trưởng mạnh, đồng thời kìm hãm sự phát triển của một số
 quốc gia thù địch có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ
 điển hình là Nga, Venezuela và Iran. Trái lại, cần phải thấy 
rằng giá dầu thấp cũng đã phần nào tác động tiêu cực tới Mỹ
 trong việc phát triển sản lượng khai thác dầu khí từ đá 
phiến; tác động tiêu cực tới OPEC vì hầu hết nền kinh tế của 
12 quốc gia thành viên OPEC đều phụ thuộc nặng nề vào nguồn thu
 từ dầu mỏ, nên chắc chắn rằng, trong kỳ họp sắp tới của OPEC
 vào tháng 6/2015, tổ chức này sẽ phải đưa ra quyết định cắt 
giảm sản lượng để nâng giá dầu mỏ lên mức hợp lý.