Hà
Nội–khoảng không gian không lớn nhưng chứa đựng trong mình dòng chảy
thời gian dài dằng dặc với những nếp gấp ghi dấu không thể nào quên. Mỗi
người mang trong mình cái nhìn về thủ đô rất riêng bằng các cung bậc
trữ tình thăng trầm khác nhau.Trong đó phải kể những cảm xúc nhẹ nhàng
mà sâu lắng trong bài thơ “Em ơi-Hà Nội phố” của Phan Vũ
Bài
thơ của Phan Vũ viết vào tháng Chạp năm 1972, khi cuộc chiến tranh
Mỹ-Việt đang trong giai đoạn cuối, khi sự khốc liệt và chịu đựng trên
khắp xứ sở như đã đến mức tột cùng. Khi đó Hà Nội - thành phố nhỏ,
nghèo, lặng lẽ, ít màu sắc rực rỡ. Cái sắc màu chính khi đó là màu xanh
xám. Màu xanh của rêu tường, màu xanh của áo phòng không. Nhưng qua
lăng kính nhìn của nỗi nhớ của tâm tư đẵ chắt lọc lại để thủ đo đi vào
thơ lung linh huyền ảo, đẹp mà chân thực. Những góc nhìn đa chiều tinh
tế. Trong một bài phỏng vấn, Phan Vũ đã tiết lộ hoàn cảnh sáng tác
trường thơ Em ơi Hà Nội phố “Năm 1972, Mỹ ném bom ở miền Bắc rất ác
liệt, nhất là Hà Nội. Từ đó dấy lên trong tôi niềm xúc động và khơi gợi
một tình yêu mãnh liệt đối với đất Hà thành. Tứ thơ được hình thành từ
những cơn mưa bom này. Tuy nhiên, do bài thơ không thuộc dòng chính
thống lúc bấy giờ nên tôi không phổ biến, chỉ đọc cho bạn bè nghe. Mãi
đến năm 1985, nhạc sĩ Phú Quang đã trích một số lời trong bài thơ ấy để
phổ thành ca khúc, nhưng lại được ghi là... phỏng thơ.”
Một
Hà Nội với những góc phố, những hình ảnh lạ mà quen, có khi chỉ là
những thứ tầm thường ta không để ý, chỉ khi xa rồi mới sôi lên trong
lòng nỗi nhớ nôn nao. Bài thơ viết gửi những người đi xa khi thành phố
quê hương đang bị tàn phá khốc liệt, nhưng không có tiếng bom rơi, không
có nhà đổ, không có người chết. Chỉ có lời bình thản của những ngày
bình an. Phải chăng giữa sự sống và cái chết, bình thản là một chọn lựa.
Chính vì thế hầu hết những hình ảnh xuất hiện trong bài đều hết sức
lãng mạn. Em ơi! Hà Nội - phố! /Ta còn em mùi hoàng lan /Còn em, hoa sữa
/Tiếng giày gọi đường khuya. Câu thơ khiến ta gơi nhớ đên những đêm
vắng vẻ, chỉ còn hương thơm hòa quện chảy tran xuống lòng phố. Cái hương
tưởng như rất đỗi bình dị ấy đã ngầm dần vào dong huyết quản tự khi
nào.
Hơn
hết, hiện diện trong bài thơ là một thủ đô đầy hào hoa trang nhã, với
những đường nét gợi thanh lịch. Cảnh và người rất đỗi nên thơ. Cái tình
cũng khéo léo “Cô gái gặp nắng hanh. /Chợt hồng đôi má /Cơn mưa nào đi
nhanh qua phố /Một chút xanh hơn”. Hình ảnh Hà Nội thường song hành với
“em”- cái tên gọi chung chung gợi thương nhớ-như là cái cớ dễ thương để
gợi lí do nhớ về Hà Nội. Em đi qua cả bốn mùa “Ta còn em cô hàng hoa
/Gánh mùa thu /Qua cổng chợ”.. “ Ta còn em bảy nốt cù cưa,/Lão Mozart
hàng xóm/Từng đêm quên ngủ./Cô gái mặc áo đỏ Venise/Tiếng dương cầm
trong căn nhà đổ/Những mảnh vỡ trên thềm /Beethoven và Sonate Ánh
Trăng”. Những hoài niệm rất riêng nhưng cũng rất chung của Hà Nội. Với
tiếng dương cầm buông nốt giữa đêm khuya tác giả đã khiến cho người đọc
như đang mơ giữa chốn thiên đường êm dịu. Nhưng đây là bào thơ viết về
thủ đô những ngày chiến tranh ác liệt chính vì thế vẫn gợi lên những nét
điêu tàn. Giữa những bức tường đổ, tiếng đàn lạc về đâu, cô gái mặc áo
đỏ còn đâu bỏ mặc những mảnh vỡ bên thềm. Nhưng ngay cả điều đó cũng
không thể nào phá vỡ được không gian đẹp yên lành đầy sức sống vốn có
của Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét