1. Những
phát hiện khảo cổ trong các con tàu chìm Rang Kwian (vịnh Thái Lan),
Turiang (Malaysia), Padanan (Philippines) từ năm 1976 đến 1993 đã cho
thấy phần nào bức tranh tuyệt đẹp về gốm cổ Việt Nam và phác họa lại con
đường tơ lụa trên biển. Bức tranh đó càng rực rỡ khi khai quật tàu cổ
Cù Lao Chàm.
Theo
TS Nguyễn Văn Cường, ở ngoài khơi Hội An, cách Cù Lao Chàm 14 hải lý về
phía đông bắc, một cuộc khai quật dưới biển với quy mô chưa từng có
trong những năm 1997-2000 đã phát hiện được một khối lượng khổng lồ,
khoảng 150.000 đồ gốm hoa lam hầu như còn nguyên vẹn trên một con tàu
đắm, có niên đại khoảng giữa thế kỷ XV. Những đồ gốm này là sản phẩm của
các lò gốm ở tỉnh Hải Dương, cho thấy con tàu này đã mua gốm từ một
thương cảng nào đó ở Bắc Bộ và đang trên đường đi xuống phía nam đến các
nước Đông Nam Á hải đảo để tiêu thụ thì bị đắm.
Tàu
nằm ở độ sâu 70-72m dưới mực nước biển. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
Visal và Công ty Saga Horizon (Malaysia) đã tiến hành khai quật cùng với
nhiều chuyên gia khảo cổ học của Anh, Séc và một số chuyên viên lặn
nước ngoài. Con tàu dài 29,4m, rộng 7,2m, trong lòng chia thành 19
khoang, gỗ đóng tàu là loại gỗ tếch còn tốt và các thanh dầm ngăn cách
các khoang được ghép rất chắc chắn, dù đã chìm trong lòng biển 5 thế kỷ.
Trong
tàu cổ này còn có một số đồ gốm sứ Trung Quốc và Thái Lan là đồ dùng
của thủy thủ đoàn. Một người tham dự cuộc khai quật hệ trọng này đã kể
rằng, các chuyên gia ngồi trên mạn tàu và chỉ đạo cho thợ lặn lấy đồ
trong lòng tàu đắm qua các camera hiển thị. Và tất cả những thước phim
ấy hiện vẫn còn được lưu giữ.
2. Cố
GS Trần Quốc Vượng từng nhận xét rằng, có một thời ở phương Tây đồ gốm
chỉ được coi là đối tượng của nghệ thuật thứ cấp, nếu so sánh với kiến
trúc và điêu khắc. Trong khi đó, ở phương Đông, nhất là ở Trung Hoa, từ
xưa đồ gốm đã được coi là loại hình nghệ thuật cấp trưởng. Cũng đã từng
có thời, từ nửa cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, giới Đông phương học
Âu Tây chỉ coi Việt Nam là một “Trung Hoa bé tí xíu”, do vậy họ cũng
coi đồ gốm sứ Việt Nam chỉ là một nhánh nhỏ của cây đại thụ gốm sứ Trung
Hoa.
Nửa
sau thế kỷ XX, sau khi đi sâu nghiên cứu, bàn luận về công nghệ lò nung
rồi sự diễn tiến về kiểu dáng và men, nhiều chuyên gia đã ngỡ ngàng
nhận ra rằng, Việt Nam có lịch sử lâu dài nhất về sản xuất gốm tráng men
ở Đông Nam Á.
80
năm trước, thế giới hiện đại vẫn nhầm tưởng rằng, dòng gốm hoa lam được
sản xuất không nơi nào khác ngoài Trung Quốc. Nhưng sau khi L.R.Hobson
phát hiện dòng minh văn ghi trên vai chiếc bình gốm hoa lam tuyệt đẹp
cao 54cm trưng bày ở Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) vào
năm 1933-1934 (có dòng chữ ghi rõ “Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách
châu Bùi thị hý bút” – năm Đại Hòa thứ 8 – 1450 đời Lê Nhân Tông – thợ
gốm châu Nam Sách họ Bùi vẽ chơi) – đã mở rộng cánh cửa cho một lĩnh vực
nghiên cứu mới.
Từ
đó, người ta quan tâm tới một địa danh có tên là Nam Sách, ở đâu đó bên
lưu vực sông Hồng thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, nơi có thể có những lò sản
xuất gốm vốn nằm trong thái ấp của các đại quý tộc triều Trần. Họ gọi
đây là “gốm An Nam” và coi đó là “một hiện tượng mới” trong lịch sử gốm
phương Đông. Nhưng phải đợi 52 năm sau, những bí ẩn về nơi sản xuất
chiếc bình gốm hoa lam đẹp nổi tiếng ấy mới được khám phá.
Từ
những thông tin của ông Mokoto Anabuky, Đại sứ Nhật Bản tại Hà Nội về
chiếc bình Topkapi, các cán bộ Bảo tàng Hải Hưng (nay là Hải Dương), do
ông Tăng Bá Hoành phụ trách, đã lần tìm và phát hiện ra di tích gốm Chu
Đậu tại châu Nam Sách xưa, vào đầu năm 1983. Và cũng từ đó, người ta mới
biết dòng gốm hoa lam cũng được sản xuất ở Việt Nam từ hơn 500 năm
trước.
Làng
gốm Chu Đậu (nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) là
một trung tâm sản xuất gốm lớn nhất của nước ta, ra đời vào thế kỷ XIV
và phát triển rực rỡ nhất vào thế kỷ XV-XVI. Chu Đậu thường sản xuất
những dòng gốm cao cấp, gốm mỹ nghệ phục vụ cho tầng lớp trên, phục vụ
tôn giáo, tín ngưỡng và xuất khẩu ra nước ngoài.
Dòng
gốm Chu Đậu có sự kết hợp nhiều kỹ thuật trang trí như đắp nổi, chạm,
dán ghép, khắc chìm. Men sử dụng với nhiều màu khác nhau hết sức phong
phú: men trắng hoa lam, men nâu, xanh lục, men ngọc, men trắng vẽ tam
thái hoặc kết hợp vẽ vàng kim trên men. Sự chuyển đổi kỹ thuật dùng bút
lông để vẽ hoa văn bằng màu dưới men đã đem lại cho công nghệ gốm Việt
Nam những nét mới mẻ và dẫn tới sự ra đời của gốm hoa lam. Gốm hoa lam
hiện đã phổ biến và trở thành thuật ngữ quốc tế, dùng để chỉ những đồ
gốm có men trắng được vẽ màu xanh cobalt dưới men.
Sau
khi có quyết định của Chính phủ Việt Nam, 10% hiện vật trong tàu cổ Cù
Lao Chàm đã được lựa chọn và “chia phần” tương đối đều cho các bảo tàng:
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 4.362 hiện vật cùng 779 hiện vật độc bản, Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam tại TP HCM 4.362 hiện vật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam 4.362 hiện vật, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam 5.562 hiện vật, Bảo tàng
tỉnh Hải Dương 5.562 hiện vật.
Càng
nghiên cứu, nghệ thuật của người xưa càng hiển lộ. Chủ đề trang trí có
hình tượng con người, động vật, côn trùng, thủy tộc, hoa lá, phong thủy…
kết hợp kỹ thuật trang trí nổi bằng bút lông với vẽ lam hay vẽ nhiều
màu trên men. Mỗi loại hoa văn lại có nhiều bố cục, nhiều cách thể hiện,
đa dạng chưa từng biết đến cho thấy tài khéo vô cùng của người thợ gốm
xưa.
Đó
là một bút pháp điêu luyện tuyệt vời: khi thì tỉa vẽ thật chi tiết, khi
thì phóng bút nhanh và thoáng. Lối thể hiện không gian ba chiều, luật
viễn cận trong hội họa đều như được sử dụng rất nhuần nhụy và từ đó phô
diễn một cách kỳ lạ, sinh động, đa dạng đời sống xã hội và cả thế giới
của một miền nhiệt đới thế kỷ XV.
3. Theo
GS Misugi Takatoshi (Nhật Bản), con đường tơ lụa trên biển hình thành
rất sớm, từ khi kỹ thuật đóng thuyền buồm bọc gió vượt biển được xác lập
từ đầu công nguyên và ngày càng phát triển khi kỹ thuật la bàn được
phát minh, tạo điều kiện cho những thương thuyền cỡ lớn chuyên chở hàng
lụa, hồ tiêu, hương liệu, trầm hương, sản phẩm sành sứ… thay thế dần các
đoàn lữ hành bằng lạc đà trên lục địa đầy trắc trở và hoang vắng.
Song
song với sự hưng thịnh rực rỡ của nền văn minh Lưỡng Hà vào thế kỷ
IX-XI, hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia… đã được đưa đến các
xứ Ai Cập cổ đại để mua bán, trong đó có hàng “sành sứ An Nam”, đặc biệt
loại bát chén men ngọc được người Vịnh Ba Tư rất ưa chuộng, xem là một
dụng cụ để kiểm tra thuốc độc trong thức ăn (poisoning test) trong thời
kỳ các nước và bộ tộc tranh chấp ác liệt và truyền thuyết đó vẫn được
lưu lại cho đến ngày nay.
Bản đồ mô tả con đường tơ lụa trên bộ và trên biển. Tại Việt Nam, các thương thuyền có thể cập bến hoặc xuất phát ở Luy Lâu, Hà Nội, Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, Cù Lao Chàm, Vijaya (Thị Nại), Óc Eo (vương quốc cổ Phù Nam)
Tổ
tiên chúng ta đã vượt biển như thế nào? Nhà hàng hải George Windsor
Earl khen ngợi không tiếc lời trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ
một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ thứ XVIII như sau:
“…Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền
của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế
trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng
tôi chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết
mọi cánh buồm tiến thẳng tới trước… Tôi nghĩ mấy người Việt đó đang lèo
lái những con thuyền bé nhỏ mà cách thức để vượt sóng lượn gió thật là
tài tình. Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng
nhất nào của toàn khu vực Âu châu.
Đoàn
thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà
những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa
bão tố. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền họ lại không trang bị vũ
khí và như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải tặc”.
Còn
bác sĩ John Crawfurd, người được Chính phủ Anh đề cử làm “lưỡng quốc”
đại sứ tại hai kinh đô Bangkok và Huế năm 1822 nhận xét: “Nếu như người
Việt Nam được phép tự do viễn dương thì người ta không thể tìm đâu ra
được một sắc dân nào nữa ở Á Đông mà lại có đầy đủ những đức tính để trở
thành các nhà hàng hải siêu đẳng như vậy… Tính họ không những cương
quyết, năng hoạt động, tôn trọng hạn kỳ, mà lại luôn luôn vui vẻ chiều
lòng khách hàng… Ghe tàu của họ được các nhà chuyên môn xét đoán và mô
tả như là những loại thuyền tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á, kiến trúc
rất chắc chắn, đủ sức hải hành ngay cả những khi thời tiết xấu nhất”.
Thuyền
trưởng John White, một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến
Việt Nam vào năm 1820 thì kinh ngạc khi thấy những hải xưởng Việt Nam
thời đó lại có đầy đủ vật liệu cho việc đóng những loại tàu lớn nhất như
Frigate (tức loại chiến hạm chủ lực của Hải quân Hoa Kỳ sử dụng vào đầu
thế kỷ XIX).
4. Mầm
mống ngoại thương nằm trong lịch sử giao lưu lâu dài giữa Việt Nam và
thương nhân từ nhiều nước đã đến buôn bán tại Việt Nam. Vậy mà mãi đến
thế kỷ XX, người ta mới phát hiện gốm Việt Nam trong hàng hóa xuất khẩu
tại Tây Á, lục địa và hải đảo Đông Nam Á, cũng như Nhật Bản. Vô số gốm
hoa lam Việt Nam tìm thấy ở Đông Nam Á là thành phẩm của hoạt động mậu
dịch đáng nể này.
Qua
đó Việt Nam dành được cho mình một vị trí bền vững trong lịch sử gốm
hoa lam trong giai đoạn sớm. Còn ở Tây Á, sự có mặt của gốm đã gián tiếp
cho biết Việt Nam có mặt trong các thương vụ buôn bán đường dài. “Sự có
mặt của gốm hoa lam Việt Nam trong những sưu tập có uy tín cho biết
chúng đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và khiếu thẩm mỹ của khách hàng
sành sỏi và giàu có nhất thế giới” – Kerry Nguyễn Long trong cuốn “Gốm
hoa lam trong bối cảnh xuất khẩu” đã viết như vậy.
Còn
Bùi Minh Trí trong cuốn “Gốm hoa lam Việt Nam” nhận xét: Một trong
những tiêu chí đánh giá về sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật gốm
Việt Nam thời kỳ này phải kể đến các bức vẽ về động vật. Đây là những đồ
án đẹp được thể hiện rất cầu kỳ, sinh động, với bút pháp điêu luyện có
thần, mang tính hiện thực cao. Có thể nói không quá rằng, những bức vẽ
chim, cá có chất lượng cao so với đồ sứ thời Minh cùng thời, thì dường
như đã vượt qua độ tinh xảo, chứng tỏ bước phát triển rất cao về nghệ
thuật trang trí.
Sự
cầu kỳ của chiếc bình gốm vẽ hoa mẫu đơn dây ở Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, chiếc bát vẽ hoa sen dây ở Bảo tàng Hà Nội, chiếc đĩa lớn vẽ hoa
sen dây và hai con sư tử vờn quả cầu lửa ở Bảo tàng Pusat Jakarta
(Indonesia), chiếc bình dáng con tiện vẽ rồng là vật báu của gia đình
tướng quân Togugawa (Nhật Bản) trước đây hay những chiếc bình hình dáng
gần giống đàn tỳ bà vẽ hoa lá, chim phượng và rồng là những ví dụ điển
hình hơn cả.
Nhưng
TS Nguyễn Văn Cường lại đưa ra một minh chứng khác mà anh cho rằng
thuyết phục hơn cả. Đó là chiếc bình vẽ Thiên Nga được làm bằng chất
liệu gốm men, cao 56,5cm, đường kính miệng 23,8cm, đường kính đáy
25,8cm, nặng 15,6kg, có dáng búp sen, miệng loe tròn, gờ miệng phẳng,
thân phình thuôn dần xuống đáy – chiếc bình gốm có kích thước lớn nhất,
có đề tài trang trí hoành tráng nhất trong số những hiện vật độc bản quý
hiếm từ đợt khai quật tàu đắm Cù Lao Chàm.
Anh
lưu ý rằng, nó còn cao lớn hơn cả chiếc bình Topkapi nổi tiếng hiện
đang “lưu lạc” ở Thổ Nhĩ Kỳ. Những đề tài trang trí ở đây đã thoát ra
khỏi khuôn mẫu của đề tài kinh điển Trung Hoa, phóng khoáng hơn, sáng
tạo hơn, đậm chất dân gian, hồn quê đất Việt vùng Đồng bằng châu thổ Bắc
Bộ, như một sứ giả về từ quá khứ, cho ta hình dung phần nào về vẻ đẹp
của quê hương đất nước Việt Nam thời Lê Sơ thế kỷ XV, một quốc gia hùng
mạnh ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Và nó là một minh chứng tuyệt mỹ của con
đường tơ lụa trên biển.
Biển Đông che giấu trong lòng nước nhiều bí ẩn hơn chúng ta tưởng rất nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét