Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Tết Thăng Long - tết Hà Nội



Chắc rằng những sợi mưa xuân làm tươi tốt lại từ con người cây cỏ... từ Đại La thành Thăng Long, từ Thăng Long Hà Nội, cách đây gần một nghìn năm và hai trăm năm, cho đến nay, những sợi mưa xuân vẫn cứ làm say lòng người, trong cái ngày đầu tiên của mỗi năm, như cái nắm tay đầu tiên ấm áp của mối tình đầu.
Tết Hà Nội xưa.
Những mùa xuân Thăng Long, những cái tết Thăng Long không chết, không mất; mà đã xếp nhau, chồng lên nhau thành bia Văn Hiến, thành bức tường xanh chắn lũ sông Hồng, thành hơi sương trên hồ Dâm Đàm, thành sóng xanh Hồ Kiếm... Nó được hồi sinh lại trong lòng người Hà Nội với cây si trong đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc, đem lộc nõn cho xuân, trong cái chợ hoa Hàng Lược thưa thớt manh nha từ thời nhà Trần, tấp nập vào thế kỷ hai mươi, trong những con người Hà Nội dù ở ngay thành phố hay xa vạn dặm trùng dương vẫn nhớ về khói hương Quán Thánh, nhớ tiếng pháo, màu bánh chưng, sắc hoa đào Nhật Tân...
Đêm xuân, nhắp một chén trà trước hương khói lung linh, trong khi cả vũ trụ chuyển mình, xua tan lạnh giá, khoan thai đĩnh đạc bước vào tươi trẻ, chợt nhớ câu thơ:
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song...
Chùa Vua còn kia, bãi cờ người nào đó. Cô gái đóng vai tướng bà con mắt lá răm lông mày lá liễu có làm nhịp trống khẩu của ông thắt lưng điều bỏ múi một bên lệch nhịp?
Như có ma ám ảnh, như có keo có sơn kết dính, cái tết gắn bó mọi con người lại với nhau, mong bản thân mình được tốt lành và cũng ước ao mọi người hạnh phúc tươi vui may mắn.
Những câu chúc đầu ngày đầu năm ấy chắc chắc phải có từ nghìn năm xưa ấy, đồng thời với tục kiêng kỵ sợ rông, điều kiêng ác xấu, đâu phải dị đoan, nào là kiêng nói tục nói nhảm, kiêng đổ vỡ, kiêng đánh mắng trẻ thơ cho đến kiêng quét nhà vì sợ động đến đất mẹ, người bao dung ta suốt bao đời v.v...
Thuở ấy, phố phường đâu có như nay. Mỗi phường có rào găng, rào tre, có cổng đóng mở, có tuần đinh canh gác tháng củ mật; ngay bờ hồ Hoàn Kiếm còn cả cầu ao, ngõ trúc, tục lấy vôi bột vẽ cung tên để xua đuổi tà ma cũng là một nét mong điều lành, tránh điều dữ, lại vệ sinh sạch sẽ, thêm cái đẹp của nét của hình. Hay chứ.
Ông đồ già gù lưng phủ phục viết câu đối trên giấy hồng điều đâu chỉ là bán chữ, bán văn chương, mà là mang niềm vui cái đẹp đến cho từng nhà, đẹp đôi cột trước bàn thờ, trên hai cánh cổng, trước sân, trước hiên.... Bài thơ “Ông đồ”bất hủ của Vũ Đình Liên có lẽ là sự tổng kết mấy trăm năm lịch sử. Ngọn bút tài hoa như phượng múa rồng bay kia với khuôn hình chữ như tranh khắc đã đi vào tiềm thức hiếu học và trọng cái đẹp của toàn dân.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?...
Hồn vẫn phảng phất trong lòng mỗi người Việt Nam, dù là ông tiến sĩ có bảng có cờ hay ông tiến sĩ ngày nay trên bục giảng đường đại học, dù anh thi sĩ lang thang hay cô gái mơ ước “võng nàng theo sau...”. Những tấm linh hồn ấy vẫn bảng lảng trong tấm lòng ông già tính sao, tính lịch để tìm hướng xuất hành ngày đầu xuân, mong gặp tốt lành cho con cháu...
Những năm ấy từ ngày 23 tháng Chạp, tiếng rao “ai mua cá ông Táo” đã gọi mùa xuân về, cùng với tranh làng Hồ vẽ ông Tiến Tài, Tiến Lộc, đứng cạnh hai bên cánh cổng, là không khí đượm màu xuân tết, hy vọng cho con người.
Có một tục lệ hay mà người Thăng Long duy trì hàng nghìn năm, thật đẹp thật quý là quà biếu. Hoàn toàn không phải là sự hối lộ như người nghĩ mà chỉ là tấm lòng nghĩ đến nhau, mang niềm vui, sự biết ơn, cảm tấm lòng tri ngộ. Lễ bạc nhưng tâm thành. Con cái biếu quà cha mẹ, bạn bè biếu nhau, bạn hàng tặng nhau, hàng xóm cũng chẳng quên nhau, và ân tình nhất là môn sinh, học trò ‘tết thầy”.
Đâu phải là vàng bạc, châu báu. Cần chi gấm vóc, hải vị sơn hào... Một con gà thiến, mấy cân gạo, có khi chỉ là một chẽ cau, một cân (cân ta) mứt, hoặc chỉ là một bao trà... một chậu hoa, chục cam...
Gọi là bao trà vì trà tầu mới quý. Trà mạn nhà tự ướp sen cũng là quà sang trọng. Trà thuở ấy đựng trong chai sứ hoặc trai bằng thiếc. Có lẽ cái nghề “chè chai đồng nát” có từ thuở đó. Và cái nghề Chè Chai còn đó (nay là phố Hàng Chai nằm cạnh chợ hoa Hàng Lược).
Đương nhiên cũng lác đác có cảnh nặc nô đi đòi nợ thuê, nằm ăn vạ trên bàn thờ nhà nguời ta hay cái anh Ba Giai – Tú Xuất xấu chơi, ba mươi tết cho xe cái quan tài đến nhà người ta chỉ vì anh không tán tỉnh được cô gái, nên trả thù...
Lại nhớ cái tết Thăng Long cách đây vừa tròn 204 năm, xuân Kỷ Dậu, năm con gà, người anh hùng Quang Trung vào Thăng Long trong không khí tết. Quân thù còn mải ăn tết, không kịp trở tay, xô nhau mà chạy, còn dân chúng thì mang bánh chưng, giò thủ ra mừng đại quân chiến thắng. Tiếng pháo ngày đó chắc nổ giòn cùng hỏa hổ trong niềm vui sạch bóng quân thù. Hẳn là cây đu lại được dựng lên, bàn cờ người lại được bày ra, xới gà chọi lại ồn ã, trong khi vua Quang Trung “áo bào còn đẫm mùi thuốc súng...” thì hẳn dân chúng áo quần đẹp đẽ, nhà đón những người lính chiến vào ăn tết lại từ cái ngày mùng năm tết tưng bừng ấy...
Chẳng cần phải lên Quán Thánh, Ngọc Sơn, chùa Bà Đá hay Quán Sứ, Hòe Nhai mới thấy khói hương thành kính, mà bàn thờ nhà ai cũng nghi ngút lung linh mừng tổ tiên thần thánh linh thiêng phù hộ trăm họ nay yên bình, đầm ấm như hương xuân.
Biết đâu cái tục lệ trai gái nghèo thương yêu nhau nhưng không có tiền cheo tiền cưới, cứ giao thừa thì được tự do kết hôn một cách đơn giản và tự nguyện, thì cái tết Kỷ Dậu ấy chẳng được lặp lại dưới con mắt đồng tình vui vẻ của người anh hùng nông dân ấy?
Mùa xuân cứ đến. Thăng Long đã làm xong phận sự của mình, nhường chỗ cho Hà Nội. Một giai đoạn mới ra đời. Nhiều phong tục mới khai sinh.
Cái chợ Cầu Đông bên bờ sông Tô Lịch kia biến thành chợ Đồng Xuân. Dòng Tô Lịch bị lấp đi thành phố Hàng Lược. Nhưng hoa đào Nhật Tân, quất Nghi Tàm, hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp ngày càng phát triển. Chợ hoa mỗi năm một tràn ra tứ phía như một phép lạ: tuổi đẹp dậy thì kéo dài mấy đời người, mấy trăm năm.
Thăng trầm là điều dễ hiểu. Biến thiên là đương nhiên. Nhưng cái tết vẫn là niềm say, cái đẹp của dân tộc Kinh kỳ.
Đêm ba mươi tết, thanh trai gái lịch Hà Nội, quần áo đẹp: tình yêu đẹp, sóng đôi bên hồ đón xuân, chờ lộc...
Thay cho cây đu và vũ hội, là biểu diễn văn nghệ, là tâm tình... Và thiêng liêng nhất, đúng lúc giao thừa, cái phút ngừng lặng của năm cũ, cái phút mở đầu của năm mới, mọi người lắng tai nghe lời chúc tết của Bác Hồ. Sông núi rung chuyển, khí thiêng ngân vang...
Cầu Thê Húc trước đây bằng gỗ, năm 1952 không chịu được sức nặng của mùa xuân, bị gãy gục, có người bị rơi xuống hồ, ướt lướt thướt, nhưng vẫn may mắn. Và năm 1947, tết kháng chiến, hoa đào Nhật Tân đã vượt qua phòng tuyến quân thù, băng qua lửa đạn, vào với anh chiến sĩ Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, hoa đào ngắm trong hương khói thuốc súng và hương trầm cùng rượu Mỹ với nước giếng Ngõ Phất Lộc.
Năm 1966- 1967 chợ hoa sơ tán ra Hàng Da -Đường Thành để tránh máy bay, tránh cái ác cái chết rơi xuống đầu người và màu hoa.
Chợ hoa Hà Nội.
Một hình ảnh khó quên là trước tết vài tuần, có những ông già lực lưỡng, vác cái cưa ngang và chiếc búa quả vải đi bổ củi thuê, góp lửa cho nồi bánh chưng. Cưa vèo vèo, bổ phăm phăm, những câu gộc, những phiến củi tạ, chỉ giây lát thành những thanh củi đẹp mắt, ngon như miếng giò lụa khổng lồ. Nồi bánh chưng luộc bằng bếp dầu, bếp điện và cả bằng nồi áp suất, thuận tiện thì có, nhưng cái đẹp, sự hồi hộp, niềm náo nức thì không, cũng mất đi luôn cái nồi nước lá mùi già thơm nức để tắm tất niên, đặt kèm bên bếp lửa sôi lục bục suốt đêm, hồng đôi má coi bánh giúp mẹ, bởi bên cô là anh chàng người yêu sung sướng được thức một đêm bên người đẹp.
Tưng bừng nhất có lẽ sau ngày ông Táo lên chầu giời. Con cá chép bay lên chín tầng mây thì ở hạ giới, chợ hoa bắt đầu họp. Đầu tiên là quất, hoa đào, cây cảnh, những ngày sau đó mới có hoa cắt... Phật phủ Lạng Sơn vàng ươm, xanh óng, quả đủ hình thù, làm mâm ngũ quả cứ thơm suốt mấy ngày tết, thơm gần hết tháng giêng. Lá dong bạt ngàn. Cái chợ  lá ở ngõ Thanh Hà đầp ắp, rồi tỏa đi khắp chợ cùng quê. Đã thấy nhiều em gái, nhiều thiếu nữ, ngồi rửa lá dong bên máy nước, giúp đỡ mẹ một công việc khá quan trọng. Lá sạch bánh mới không thiu, rằm tháng giêng vẫn ngon như thường. Nồi bánh là quan trọng, và cũng là nặng nhọc nhất, hội hộp nhất.
Cảnh chờ đợi xếp hàng làm bánh quy gai xốp như thời bao cấp không còn nhưng chờ đợi để làm đầu thì vẫn còn, vẫn tấp nập như thường. Nhiều cô đợi cả mớ cặp vì làm dở, đi mua bán rồi chốc nữa làm tiếp.
Cái bồng bềnh của mái tóc quả là mối bận tâm hàng đầu của cô gái, muốn làm mê lòng chàng trai ý trung nhân.
Báo tết đủ kiểu, đủ màu, đủ loại đã thấy bán khắp các quầy báo, và từ mọi cửa ô, cơn lũ thực phẩm, rau xanh, hoa tươi, ngày đêm đổ vào Hà Nội như không có gì ngăn nổi. Nhà ga, bến xe không còn cảnh chờ đợi vài ngày xếp hàng dài mấy trăm mét giữa phố Trần Hưng Đạo, ngay trong mưa trong nắng. Người từ các tỉnh về Hà Nội sắm tết. Người Hà Nội về quê ăn tết, í ới, vội vàng, tất bật, có cả tiếng khóc của người bị lừa mất hết hành lý, trong đó có cả quà tết về biếu cha mẹ, họ hàng. Thật khổ tâm.
Những mâm cỗ cúng giao thừa lác đác trên nhiều đường to ngõ nhỏ. Khói hương nghi ngút, thơm ngát, người lễ vái khấn khứa tâm thành. Lộ thiên thôi, thế mới là cúng trời cùng đất, mới dễ thấu đến cõi huyền vi.
Tranh Đông Hồ sánh vai cùng tranh in hiện đại. Không chỉ có bốn cô tố nữ đánh đàn thổi sao mà con gái thời nay, váy ngủ kiểu áo đủ màu, mặt hoa da phấn... trên tờ lịch in từ Úc, Thái Lan... Ngõ Hàng Hương chui qua gầm cầu cạn vẫn còn kia. Không chỉ chỗ ấy làm hương mà nhiều phố, cả sân tòa án tối cáo cũng có xưởng xay gỗ hoàng đàn để khói hương thơm gần thơm xa trong gia đình chùa, mọi gia đình suốt mấy ngày tết.
Hà Nội thời mở cửa, ăn ngon, mặc đẹp. Cái áo bông xanh đã đi vào dĩ vãng. Không còn tiền phong bao trong giấy đỏ nhưng tục lệ chúc mừng, cho các em tiền mừng tuổi lại được phục hồi.
Hà Nội thực sự chuyển mình, như mùa xuân chuyền mình từ mùa đông trước. Tuổi mới đã bắt đầu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét