Chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa từ các chứng cứ lịch sử - Tài liệu cổ của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý.
Các tài liệu do
Việt Nam nắm giữ khẳng định sự hiểu biết từ lâu đời đối với hai quần
đảo. Sự hiểu biết này đã chuyển hóa thành sự chiếm hữu thực sự từ thế kỷ
XVIII. Theo đó, các đảo và quần đảo đã được đề cập từ rất lâu đời. Đó
là các bản đồ có lẽ được lập từ cuối thế kỷ XV - thời vua Lê Trang Tông
có nói đến quần đảo Hoàng Sa đã được Viện Nghiên cứu lịch sử in lại,
cũng trong các tập Hồng Đức bản đồ được lưu trữ tại Nhật Bản niên đại từ
thế kỷ XVII.
Những dấu vết đầu tiên
khẳng định về một quyền đã xuất hiện trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê
Quý Đôn viết năm 1776, điều này đánh dấu niên đại của những dấu hiệu
pháp lý chắc chắn đầu tiên từ thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm của nhà bách
khoa với chức vụ Hiệp trấn, các quần đảo đã được mô tả (phải đi ba ngày
đêm mới đến được, các quần đảo đã được xác định khá chính xác) và nói
đến hoạt động khai thác có tổ chức của các chúa An Nam.
Người ta tìm thấy ở đây
bản kê khai các tài nguyên thu lượm được việc khai thác này sau khi đã
tham khảo các sổ đăng ký của chúa nhà Chúa có ghi ngày: “Tôi từng tra
khảo số biên của cai đội Thuyên Đức Hầu ngày trước như sau: năm Nhâm Ngọ
(1702), đội Hoàng Sa thu lượm được 30 thỏi bạc; năm Giáp Thân (1704),
thu lượm được 5.100 tấn thiếc; năm Ất Dậu (1705), thu lượm được 126 thỏi
bạc. Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đến năm Quý Tỵ (1713), tức là trong
khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy cân đồi mồi và hải sâm.
Cũng có lần chỉ lượm được mấy cái bát sành và hai khẩu súng đồng.
Cũng tác giả này đã
thuật lại những sự kiện trước kia đã từng được các nhà sử học biết đến
như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan và thủy binh của các chúa
Nguyễn 1643 - 1644. Các sự kiện này chứng tỏ các chúa An Nam đã có một
lực lượng hải quân hiệu quả và rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển.
Điều này liệu có đưa đến việc nghĩ rằng việc khai thác có tổ chức có lẽ
đã có từ lâu mà các cuốn sổ ghi chép chính xác này không nói đến? Không
thể bảo vệ điều này vì không có đủ các bằng chứng trước đó.
Ngược lại, từ đầu thế
kỷ XVIII, các bằng chứng về việc cai quản của chúa An Nam đã được xác
lập tốt. Như vậy, khi ông Le Fol, Khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ viết cho
Toàn quyền Đông Dương ngày 22/1/1929 rằng “quần đảo (Hoàng Sa) dường như
vẫn còn là res nullius (đất vô chủ) cho đến đầu thế kỷ trước” và cho
biết trong văn kiện này các chỉ dẫn về hành vi cai quản các đảo được các
triều đại trước đây thực hiện từ đầu thế kỷ XIX. Luận điểm này của ông
Le Fol là của một con người đang đảm nhiệm chức vụ ở một miền của Việt
Nam, trực tiếp liên quan đến khía cạnh lịch sử của các vấn đề đó, chắc
hẳn là dựa trên sự hiểu biết nhất định về các hồ sơ. Tuy nhiên, sự hiểu
biết của ông không đủ để xác định ngày tháng của các hành vi cai quản
của An Nam với tất cả các mức độ chính xác mà việc xem xét đầy đủ hồ sơ
cho phép.
Đặt mình vào thế kỷ
XVIII, người ta có thể bảo vệ được rằng cho tới thời điểm đó, sự tồn tại
của các đảo Hoàng Sa đã được biết đến một cách rộng rãi, rằng Trung
Quốc không thể viện dẫn bất kỳ sự chiếm hữu nào phù hợp với các tiêu
chuẩn đã được nêu ở trên, rằng cuốn sách của Lê Quý Đôn ở Việt Nam là tư
liệu đầu tiên nêu lên các hành vi tương ứng với một sự quản lý nhất
định quần đảo, đó là sự quản lý có niên đại từ những năm đầu của thế kỷ
XVIII. Đối với các đảo Trường Sa, sự tồn tại của chúng chắc chắn đã được
biết đến cho dù còn chưa xác lập rõ sự khác biệt của chúng với quần đảo
Hoàng Sa (trong các tài liệu được tiếp xúc). Không có gì cho phép khẳng
định rằng Trung Quốc đã chiếm hữu các đảo này. Việc quản lý các đảo ở
Trường Sa đồng thời với các đảo ở Hoàng Sa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét