Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneve đã xác nhận vấn đề pháp lý chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Trong bối cảnh
Trung Quốc ngang ngược vi phạm Luật pháp Quốc tế, đưa ra cái gọi là
“chứng cứ” của họ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam, Hiệp định Geneve không chỉ đánh dấu một mốc son trong lịch sử của
Dân tộc, mà còn cho thấy những chứng cứ vững chắc, khẳng định chủ quyền
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 8/7/1954, một ngày
sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội Nghị Geneve về Chấm dứt chiến sự và
Lập lại hòa bình ở Đông Dương khai mạc. Sau 75 ngày thương lượng, qua 8
phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại
giao dồn dập, ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết.
Ngày 21/7, Hội nghị
Geneve kết thúc, thông qua tuyên bố chung bao gồm những nội dung quan
trọng như đình chỉ chiến sự, lập lại, duy trì và củng cố hòa bình, tổng
tuyển cử thống nhất đất nước và
các vấn đề thi hành Hiệp định cho toàn bộ Đông Dương. Sự nghiệp cách
mạng của Dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới.
Cùng với nhiều sự kiện
lịch sử quan trọng khác, Hội nghị Geneve vào năm ấy cũng là một chứng cứ
lịch sử chứng minh chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về
Việt Nam.
Liên quan đến sự kiện
này, PGS.TS, nhà nghiên cứu Lịch sử ngoại giao Vũ Dương Huân phân tích,
Hội nghị Geneve kết thúc ngày 21/7/1954 với 3 Hiệp định đình chiến ở
Việt Nam, Lào và Campuchia; tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ thống nhất của Việt Nam nghĩa là bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa từ thế kỷ 17. Năm 1954, Pháp đã hoàn thành xâm chiếm Việt Nam,
biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Pháp thay mặt Việt Nam thực
hiện chủ quyền của Việt Nam, đưa lực lượng đóng quân tại các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa cho đến khi rút khỏi Việt Nam năm 1956 và trao lại
cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Tạ Quang Bửu, phía đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và tướng Pháp Henri Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, Phái đoàn Pháp đang ký Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam (Ảnh: wiki)
Khi Pháp rút khỏi Việt
Nam, theo Hiệp định Geneve năm 1954, đối tượng được thừa hưởng, thừa kế
toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa là Chính phủ quốc gia Việt Nam, sau này là
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Bà Monique Chemillier
Gendreau, Nguyên Chủ tịch Hội Luật gia Dân chủ Thế giới cho rằng, ở thời
kỳ thuộc địa, Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho
đến khi rút khỏi Việt Nam.
Trở lại thời điểm này
60 năm về trước, Trung Quốc với tư cách là một quốc gia lớn tham gia Hội
nghị với 214 người, trong đó đích thân Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
Trung Quốc cũng là quốc
gia cuối cùng ký tuyên bố Hội nghị. Điều này cho thấy Trung Quốc đặc
biệt coi trọng Hội nghị Geneve và những điều khoản được ký kết năm ấy.
Theo các tài liệu để
lại, vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa được đề cập trong tuyên bố
cuối cùng của Hội nghị, cụ thể, nó được đề cập ở Điều 1 và Phụ lục của
Điều 1 trong tuyên bố cuối cùng của Hội nghị khi quyết định về giới
tuyến quân sự tạm thời giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam tại sông Bến
Hải, tức là vĩ tuyến 17 kéo dài ra Biển Đông.
Theo đó, quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Như vậy trong tuyên bố cuối cùng và Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt
Nam, Điều 1 và Điều 4 đã xác nhận vấn đề pháp lý chủ quyền của Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam.
GS.TS. Nguyễn Quang
Ngọc, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định các hiện vật chứng tích lịch sử, pháp
lý về chủ quyền của 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhận
định, theo Hiệp định Geneve năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa mới
là chủ thể quản lý khu vực từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam. Trong thực tế,
Việt Nam đã có nhiều hoạt động cả trên lĩnh vực quân sự lẫn dân sự để
thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng đồng quốc tế
cũng đã công nhận điều này. Trung Quốc là một bên ký kết Hiệp định
Geneve năm 1954, đương nhiên Trung Quốc phải có trách nhiệm tôn trọng
Hiệp định họ đã ký kết và tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam, tôn trọng việc 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
về chủ quyền của Việt Nam mà Hiệp định Geneve đã xác định.
Tương đồng với quan
điểm của GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, nhà xã hội học người Pháp Andre
Menras nhận định: “Năm 1954, Trung Quốc là một bên tham gia Hội nghị
Geneve và họ đã chấp nhận tất cả
các điều khoản được ký kết tại Hội nghị. Khi đặt bút ký vào Tuyên bố
chung của Hội nghị năm ấy, nghĩa là họ đã thừa nhận quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Việt Nam Cộng hòa với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Đó là một Hiệp định được cộng đồng quốc tế công nhận, được xây dựng
bởi hệ thống luật pháp quốc tế và Trung Quốc không được quyền chối bỏ.
Dưới những góc nhìn
phân tích khác, các chuyên gia quốc tế cho rằng, việc Trung Quốc phủ
nhận các kết quả của Hội nghị San Francisco năm 1951 và Hội nghị Geneve
là sự phi lý, đi ngược lại quan điểm và chữ ký của chính họ tại Hội nghị
năm ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét