Để làm nên làng hầm Vịnh Mốc, che chở an toàn cho hàng vạn người dân trong những năm chiến tranh ác liệt là công sức của cả tập thể. Nhưng, người đã nảy ra sáng kiến đào địa đạo hết sức hiệu quả như thế lại là một người chưa học hết tiểu học...
Kiến tạo làng hầm xuyên lòng đất chỉ với chiếc la bàn
Những năm 1964 trở đi,
Mỹ cùng chính quyền tay sai đã gia tăng các hoạt động đánh phá ra miền
Bắc. Với vị trí tuyến đầu nên khu vực Vĩnh Linh phải hứng chịu một lượng
lớn bom đạn do không quân Mỹ rải xuống, rất nhiều làng mạc, công trình
đã bị tàn phá hết sức nặng nề. Theo chỉ thị của Khu ủy Vĩnh Linh thời kỳ
đó, bằng mọi giá phải bám đất, bám làng, tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê
hương.
Công tác cứu thương cũng diễn ra trong lòng địa đạo
Và, để tiếp tục bám trụ
trên vùng đất này, tạo được tâm thế chủ động theo tinh thần “mỗi làng,
xã là một pháo đài chiến đấu” thì việc đầu tiên là phải tìm được phương
án phòng tránh hợp lý, hạn chế các thương vong không cần thiết. Tiếp
nhận chủ trương đó, người dân Vĩnh Linh đã nhiều lần đào hầm để trú ẩn
và tránh bom đạn. Tuy nhiên, sau nhiều lần bỏ công sức để đào hầm chữ A,
chữ U đều bất thành do sức công phá của bom đạn quá lớn. Đã không ít
lần hầm vừa đào xong liền bị đánh sập, khiến hàng chục, hàng trăm người
gồm bộ đội lẫn người dân phải nằm lại trong lòng đất.
Là Đồn trưởng Đồn Công
an vũ trang 140, đóng tại Cửa Tùng, quản lý một vùng đất đai rộng lớn và
cùng sát cánh với người dân trong nhiều cuộc chiến chống lại kẻ thù xâm
lược, ông Lê Xuân Vy (hiện đã 85 tuổi, trú tại phường 5, TP Đông Hà)
hiểu rõ sự mất mát quá lớn đó. Ông Vy cảm thấy bị dằn vặt bởi không tìm
ra cách nào để có thể bảo vệ an toàn tính mạng cho người dân.
Bản thân ông hiểu rất
rõ, nếu thiết kế những căn hầm đơn thuần như vậy thì không đủ sức chống
chọi được với mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Khi hầm bị bom đánh sập, cửa
bít lại thì những người trú ẩn trong đó cũng sẽ chết vì ngạt. Sau nhiều
lần suy nghĩ, cuối cùng ý tưởng thiết kế làng hầm địa đạo xuyên vào lòng
đất, dựa trên nguyên lý của hầm chữ A, chữ U…cũng đã hình thành trong
suy nghĩ của ông.
Nghĩ là làm, tháng
2/1966, ông lệnh cho lực lượng trong đồn phối hợp với người dân bắt tay
ngay vào việc đào hầm trú ẩn. Cùng với Vĩnh Giang, Vịnh Mốc, Sơn Hạ, rất
nhiều địa phương khác của “vùng đất lửa” Vĩnh Linh cũng tích cực đào
hầm địa đạo để tránh bom đạn. Trong quá trình đó, đích thân ông Vy là
người hướng dẫn cho bộ đội và người dân đào hầm. Công trình này được
hoàn thành vào năm 1967. Theo đó, hàng trăm hộ gia đình đã chuyển cuộc
sống trên mặt đất vào địa đạo mới có thể bảo toàn được mạng sống giữa
những “làn tên, mũi đạn” của kẻ thù xâm lược.
Sơ đồ cấu trúc của làng địa đạo Vịnh Mốc
Thời điểm này, Vịnh Mốc
là một địa đạo lớn nhất trong số 114 địa đạo trên mảnh đất Vĩnh Linh.
Hệ thống đường hầm có tổng chiều dài 1.701m, với 13 cửa (gồm 7 cửa thông
ra biển, 6 cửa thông lên đồi). Đây là công trình huy động toàn bộ trí
tuệ, sức lực của quân và dân Vịnh Mốc và lực lượng vũ trang Đồn 140.
Thực tế cho thấy, trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại dưới lòng đất đã nói
lên kỳ tích của người dân nơi đây. Hơn nữa, ngoài việc tránh được bom
đạn, người dân còn có thể chiến đấu với địch ngay trên chính quê hương
mình.
Quá trình đào địa đạo
thiếu thốn rất nhiều thứ bởi công cụ lao động chỉ là những đồ vật thô sơ
như cuốc xẻng, quang gánh, xe cút kít. Phương tiện kỹ thuật hiện đại
nhất để ông Vy lấy căn cứ đào địa đạo chính là một chiếc la bàn cũ kỹ.
Hơn nữa, ở dưới lòng đất, anh em vẫn đang đào địa đạo nhưng phía trên
đầu vẫn hứng chịu bom đạn của kẻ thù. Trong lúc đào bới, hầu hết các đơn
vị thắp đèn dầu, đuốc tre... Khi ấy, oxy trong lòng địa đạo thiếu trầm
trọng, khói của chiếc đèn dầu khiến không ít người ngạt thở. Khó khăn
gian khổ là vậy, nhưng với quyết tâm "một tấc không đi, một ly không
rời", quyết bám đất, giữ làng sản xuất và chiến đấu làm tròn nhiệm vụ
tiếp tế bảo vệ đảo Cồn Cỏ và chi viện sức người sức của cho chiến trường
miền Nam ruột thịt, nhân dân xã Vĩnh Thạch đã làm nên kỳ tích dưới lòng
đất.
Gần 300 ngày “xẻ lòng đất mẹ” để tìm sự sống
Đã gần 50 năm trôi qua
nhưng ông Vy vẫn nhớ như in từng chi tiết về những ngày tháng gian khó.
Kể lại việc đào địa đạo, ông Vy cho biết: “Lúc đưa ra sáng kiến đào địa
đạo, nhiều người lo ngại, làm sao có thể đào địa đạo khi địa hình ở dưới
lòng đất tối om và không lấy gì làm căn cứ định hình được. Tuy nhiên,
những lo ngại trên đã có cách giải quyết, tối ta có thể dùng đèn, nến,
còn việc định hình thì đã có la bàn làm căn cứ. Vấn đề là phải tính toán
đào địa đạo như thế nào cho phù hợp. Muốn vậy phải tính toán đến độ
dốc”.
Ông Vy vẫn còn nhớ khá chi tiết về quá trình đào địa đạo cũng như các ngõ ngách ở làng hầm Vịnh Mốc
Ông Vy nảy ra sáng kiến
đo thành từng đoạn từ trên đỉnh đồi xuống. Mỗi đoạn khoảng 1m. Một sợi
dây được căng ra theo phương ngang từ điểm cao nhất, rồi một sợi dây
khác được kẹp chì gióng xuống để tính độ dốc của đoạn đó. Hết đoạn này
lại đo tiếp đoạn khác. Sau đó ông cộng các thông số độ dốc của từng đoạn
lại với nhau để thành kết quả cuối cùng. “Sau này khi hoàn thành, người
của Cục Công binh mang máy móc vào đo lại thì kết quả y như tôi đo thủ
công” - ông Vy kể.
Khi mọi tính toán đã
thực hiện xong, ông Vy cho anh em đào thăm dò trước một đường nhỏ, ông
cho đặt 3 cây đèn hay ba ngọn đuốc theo một đường thẳng. Anh em cứ căn
vào đó để đào địa đạo là thẳng và có thể cho các đường móc nối với nhau
đúng hướng. Hầm địa đạo được thiết kế từ Đông sang Tây để tránh bom đạn.
Ông Vy lý giải: “Việc tôi chọn đào địa đạo theo hướng Đông - Tây vì nếu
Mỹ ném bom từ biển vào có thể chỉ phá được một đoạn ngắn hầm phía Đông,
còn phía Tây nằm sâu trong đất liền sẽ an toàn”.
Với công cụ thô sơ nhưng quân và dân ta đã làm nên một kỳ tích xuyên lòng đất (Ảnh Tư liệu)
Để tạo động lực cho các
đội đào địa đạo, ông Vy tổ chức các đợt thi đua giữa các tổ, nhóm. “Tổ
nào đào nhanh sẽ được phong là kiện tướng đào đất. Tổ nhanh hơn được
phong là đại kiện tướng. Nhờ thế mà dù chỉ ăn khoai sắn, tốc độ đào địa
đạo của quân dân Vĩnh Linh tăng đáng kể” - ông Vy kể.
Ngoài trục chính của
địa đạo còn có hệ thống hầm gồm: nhiều căn hộ gia đình, hội trường, hầm
vũ khí, nhà hộ sinh, khu vực cứu thương, giếng nước… Cùng với đó là các
đường rẽ vào trục chính để cơ động di chuyển khi có sự cố.
Hơn 2.000 ngày đêm tồn tại, mọi sinh hoạt của người dân đều diễn ra trong địa đạo (Ảnh Tư liệu)
Để không khí có thể lọt
vào trong, ông Vy cho làm hệ thống lỗ thông hơi lên mặt đất. Lỗ thông
hơi cách trục chính đúng 5m, cách hầm chữ A khoảng 10m và được đào sâu
hơn so với đáy địa đạo 0,5m, phòng khi Mỹ ném bom bi cũng không vào được
địa đạo mà chỉ lọt xuống đáy lỗ thông hơi. Đây là một sáng kiến hết sức
độc đáo của ông Vy.
Sau gần 300 ngày, lực
lượng vũ trang và người dân đã hoàn thành xong việc đào địa đạo, nhưng
ông Vy lại tính toán cẩn thận hơn. Nếu khi địch nắm bắt được và ném bom
thì những người sống và chiến đấu trong lòng địa đạo sẽ rút đi đâu? Nghĩ
vậy ông cho đào tiếp một đường rút lui theo hướng ngược lên mặt đất với
chiều dài gần 60m. Có 2 tổ xung kích gồm sáu người đứng từ độ sâu 25m
(đáy tầng ba) đào ngược lên mặt đất. Suốt một tháng ròng, đường thoát
hiểm lên mặt đất được hoàn chỉnh. Đây là lối đi bí mật mang tính sống
còn, chỉ có lực lượng vũ trang mới biết được để tránh bị bại lộ.
Dù là người có công rất
lớn trong việc thiết kế và trực tiếp hướng dẫn việc đào địa đạo, công
trình huyền thoại xuyên lòng đất nhưng ông Vy luôn xem đó là việc làm
bình thường. Nói về ý nghĩa của việc đào địa đạo, ông Vy chia sẻ: “Với
tình thế lúc đó, việc thiết kế và đào được hầm địa đạo an toàn, hiệu
quả, có thể tránh được thương vong cho hàng ngàn người dân trước bom đạn
xối xả là hạnh phúc lắm rồi. Với một lượng bom đạn lớn như thế dội
xuống Vĩnh Linh, chúng ta có bảo toàn được tính mạng mới nói đến chuyện
chiến đấu chống lại kẻ thù. Hơn nữa, đây cũng là nơi trung chuyển hàng
hóa, vũ khí chi viện cho đảo Cồn Cỏ để chuyển vào chiến trường miền Nam”.
Từ sáng kiến của ông
Vy, nhiều địa phương khác của huyện Vinh Linh đã triển khai đào địa đạo,
tạo thành một hệ thống phòng tránh bom đạn vững chắc, an toàn.
Ông Lê Xuân Vy (đeo kính, bên phải hàng thứ nhất) trong lần gặp mặt các đồng đội
Khi đến tuổi nghỉ hưu,
ông trở về sinh sống bên gia đình ở TP Đông Hà. Sau đó, ông tham gia
công tác nhiều năm ở Hội người mù tỉnh Quảng Trị. Hiện đôi mắt của ông
Vy đã mù hẳn, việc đi lại cũng trở nên khó khăn hơn do sức khỏe yếu dần.
Dù chưa được vinh danh nhưng khi nhắc đến làng hầm địa đạo Vịnh Mốc –
công trình thế kỷ thể hiện sự sáng tạo độc đáo của quân và dân ta trong
những năm tháng ác liệt, mọi người trong xã hội vẫn nhớ đến ông Vy với
tư cách là “kiến trúc sư” của công trình huyền thoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét