Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Thị trường lễ, tết: Ngắm nhiều mua chẳng bao nhiêu


Hàng hiệu ế ẩm, hàng xôn cũng chẳng khá hơn. Đồ Giáng sinh chủ yếu để ngắm. Người tiêu dùng chỉ tập trung mua lương thực, thực phẩm. Đó là tình hình chung ở TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ...
 >> Hàng thì nhiều mà chả mấy ai mua

Thị trường lễ, tết: Ngắm nhiều mua chẳng bao nhiêu
Một nhóm bạn trẻ chụp ảnh kỷ niệm bên cây thông Noel tại trung tâm thương mại Vincom với những hộp quà giả trên tay.
 
Vừa đuổi theo bé trai chừng 5 tuổi đang chạy đến gần một quầy hàng bán quần áo Hàn Quốc, anh Nguyễn Quang Vinh, nhân viên kế toán ở Q.5, vừa phân bua: “Bữa nay thấy ở đây trang trí đẹp quá, vợ chồng tui dắt con ghé chơi. Chơi ở ngoài mệt nên vô trong này chút cho mát”.
Nhìn quanh khu mua sắm ở tầng một quả đúng là toàn trẻ em. Một trẻ em đi kèm là hai người lớn. Chả trách hôm nay khách đông.
Lan - nhân viên bán hàng quần áo - chép miệng: “Khách đông kiểu này canh mệt chứ có bán được bao nhiêu đâu”. Như để chứng minh, cô nháy mắt về phía hai phụ nữ đang đứng lựa trước thùng đồ đầm khuyến mãi ở quầy hàng bên cạnh, nói nhỏ: “Hai chị đó đi theo canh chừng con thôi. Con chạy tới đâu thì đi tới đó. Nãy giờ lượn khắp mấy quầy trong này rồi, đảm bảo không mua. Chương trình lễ hội, tặng quà, phun tuyết của Now Zone kéo dài tới hết Noel. Vậy là còn mệt mấy ngày nữa!”.
Nguyễn Thị Ái Hà, nhân viên bán hàng cho Hãng Geox tại Trung tâm thương mại Parkson trên đường Lê Thánh Tôn, Q.1, thở dài: “Mấy bữa nay đông người nhưng khách mua thì ít, khách kêu tụi em lấy cỡ, lấy kiểu tùm lum rồi chê xấu, chê mắc, bỏ đi”.
Than thở xong, ngẫm nghĩ một lát, Hà lại bảo: “Khách chê mắc không mua thì mình buồn chứ lương của tụi em cả tháng chắc chỉ mua nổi một đôi giày ở đây, mà phải là giày giảm giá. Tết năm ngoái em được thưởng một triệu mấy. Năm nay doanh số không có, chắc tiền sẽ ít hơn”.
Hà Nội: càng sát Giáng sinh càng vắng
Chị Nguyễn Thị Nga, nhân viên văn phòng ở Hà Nội, tranh thủ ngày thứ bảy được nghỉ ra phố Hàng Mã mua đồ trang trí Giáng sinh cho gia đình. Những tưởng sẽ phải chen chúc tìm chọn như mọi năm, nhưng chị Nga ngỡ ngàng khi thấy cả phố Hàng Mã đỏ rực hàng hóa vẫn giữ vẻ nhộn nhịp thường ngày chứ không hề nóng lên trước thềm Giáng sinh.
“Đi mua sắm thế này thích hơn vì không phải vất vả tìm chỗ để xe và chen nhau trong cửa hàng” - chị Nga nói.
Em Thảo, học sinh lớp 8 đang trông cửa hàng phụ gia đình, cho biết hàng hóa phục vụ Giáng sinh chủ yếu bán từ cả tuần vừa rồi, khách mua rải rác mỗi ngày nhưng vắng hơn hẳn vào thứ bảy (22-12). Mẹ của Thảo cho biết doanh thu bán ra hằng ngày mùa Giáng sinh này chỉ bằng một nửa đến một phần ba so với mọi năm.
Đà Nẵng: hàng phong phú, sức mua trầm lắng
Mặc dù cận kề ngày Giáng sinh nhưng thị trường Đà Nẵng vẫn còn khá im ắng. Tại các cửa hàng bày bán đồ trang trí Noel trên đường Hùng Vương, Lê Duẩn, Lý Thái Tổ tràn ngập các sản phẩm như cây thông Noel, búp bê ông già Noel biết nói... Hàng hóa phục vụ Noel nhiều nhưng người mua lại quá vắng vẻ, lèo tèo.
Chị Mỹ Ngọc, chủ cửa hàng ở số 47 đường Hùng Vương, cho biết: “So với thời điểm này năm ngoái thì sức mua năm nay thua xa, các mặt hàng như cây thông, chuông trang trí, áo quần không tăng giá nhưng vẫn không thu hút người mua. Năm nay cửa hàng của tôi chỉ bán được vài bộ áo quần và mặt nạ cho khách quen”.
Tại siêu thị Big C Đà Nẵng, tất cả mặt hàng mừng ngày Giáng sinh đều được giảm giá 50%. Bà Phan Thị Tuyết Nhung, quản lý gian hàng Noel tại Big C, cho biết: “Năm nay người tiêu dùng rất “khó tính”, khách chỉ tập trung mua những mặt hàng thiết yếu như các hộp bánh Giáng sinh, thiệp, mặt nạ chứ ít mua đồ trang trí như mọi năm”.
Cần Thơ: phần lớn khách mua hàng ăn uống, tiêu dùng
Tại các trung tâm mua sắm lớn ở TP Cần Thơ, lượng khách mua hàng hóa phục vụ Noel và Tết dương lịch không tăng đột biến nhiều so với ngày thường dù những nơi này đều đưa ra các chương trình khuyến mãi. Bà Dương Thị Năm - giám đốc siêu thị Co.op Mart Cần Thơ - cho biết khách đến mua chủ yếu các mặt hàng tươi sống phục vụ hai bữa ăn hằng ngày và hóa mỹ phẩm để phục vụ những ngày lễ tết sắp đến.
Trong khi đó hàng may mặc khách chỉ mới bắt đầu mua, chưa thật sự sôi động.
Tương tự, tại siêu thị Big C, lượng khách đến đây ngày 22-12 tương đối đông nhưng chỉ tập trung ở các gian hàng ăn uống và đồ dùng sinh hoạt gia đình. Còn các gian hàng thời trang và sản phẩm phục vụ Noel có rất ít khách đến lựa mua.

7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012


Văn hóa đã đi qua một năm với nhiều biến động, một năm của những bước chuyển mình đột phá, một năm thắng lợi của di sản, và cũng là một năm của những scandal ồn ào. Dưới đây là 7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất trong năm theo bình chọn của Dân trí.

Năm thắng lợi của di sản
 
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại năm 2012
 
Năm 2012 được đánh giá là năm thắng lợi của di sản khi tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ) tiếp tục được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hiện, UNESCO đang xem xét chuẩn bị đề nghị đưa đàn đá, kèn đá Tuy An của Việt Nam trở thành di sản Văn hóa. Cũng trong năm 2012, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) được công nhận là Di sản Tư liệu ký ức thế giới khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
Sáp nhập sân khấu bất thành
Tháng 4/2012, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch công bố quyết định thành lập Nhà hát Kịch Quốc gia VN trên cơ sở sáp nhập 2 nhà hát: Nhà hát Tuổi trẻ và nhà hát Kịch Việt Nam. Theo lãnh đạo Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, quyết định thành lập Nhà hát Kịch Quốc gia VN là thể theo nguyện vọng, yêu cầu của đông đảo nghệ sỹ hai nhà kịch phía Bắc.
 
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
Sân khấu kịch nói phía Bắc đã đối diện với vụ sáp nhập nhiều nỗi buồn, nhiều cuộc khẩu chiến dữ dội.
Tuy nhiên, ngay khi quyết định của Bộ được công bố, đông đảo nghệ sỹ của cả hai nhà hát đã lên tiếng phản đối quyết liệt. Các nghệ sỹ cho rằng, dự án thành lập Nhà hát Kịch Quốc gia Việt Nam trên cơ sở sáp nhập 2 nhà hát chỉ là nguyện vọng, chỉ là ước muốn của cá nhân, đạo diễn- NSND Lê Hùng- người đã trình dự án này lên Bộ. Nghệ sỹ của cả hai nhà hát đều bày tỏ sự bàng hoàng, sửng sốt và phẫn nộ trước quyết định này.
Ngay sau đó, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đã ra quyết định thu hồi quyết định thành lập Nhà hát Kịch Quốc gia VN trên cơ sở sáp nhập hai nhà hát. Đằng sau vụ sáp nhập sân khấu bất thành còn để lại những dư chấn đau lòng với những cuộc khẩu chiến nhiều cay đắng, phơi bày những bi kịch tồn đọng ở sân khấu kịch nói phía Bắc bấy lâu.
Bùng nổ truyền hình thực tế kéo theo những cơn bão truyền thông
 
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
Cùng với cơn lốc xã hội hóa, thương mại hóa các kênh truyền hình giải trí là cuộc bùng nổ những chương trình truyền hình thực tế ăn khách trong năm 2012. Những chương trình thực tế được mua bản quyền kịch bản nước ngoài với sự tham gia đông đảo của dàn nghệ sỹ nổi tiếng, lên sóng giờ vàng, thu hút quảng cáo, đã “làm mưa làm gió” trên khắp các phương tiện truyền thông đại chúng. Năm 2012 cũng chứng kiến, đằng sau lợi nhuận, đằng sau những “chiêu bài” hút quảng cáo của truyền hình thực tế là những scandal ầm ĩ, ồn ào, gây bão truyền thông và dư luận.
Sư thầy khóa môi nam ca sỹ khiến dư luận phẫn nộ
Có thể nói màn khóa môi giữa ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng và sư thầy trên sân khấu trong chương trình quyên góp từ thiện tối ngày 4/1 tại TP. Hồ Chí Minh vừa qua là sự kiện tai tiếng và ầm ĩ nhất của giới nghệ sĩ trong năm 2012. Nụ hôn đồng giới giữa nam ca sĩ với nhà sư đã khiến những người chứng kiến tận mắt phải giật mình sửng sốt. Khi những bức ảnh “chộp” lại màn khóa môi này bị lan truyền trên mạng đã phải đối diện với sự phản ứng dữ dội từ công chúng.
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
 
Ngay khi sự việc được phản ánh trên báo chí, nhà sư nhận nụ hôn của Đàm Vĩnh Hưng đã nhận hành phạt “biệt chúng” - không cho ra khỏi phòng tiếp xúc với người bên ngoài trong vòng 3 tháng. Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng cũng bị cơ quan quản lý xử phạt hành chính 5 triệu đồng.
 
Hành động của nam ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng cùng với hàng loạt sự vụ tai tiếng khác trong năm 2012 như "chiếc váy phản chủ" của người mẫu Thái Hà, "chiếc váy ren tai tiếng" của người mẫu Hồng Quế... đã báo động về sự xuống cấp, trượt dài về ý thức, văn hóa của một bộ phận nghệ sĩ. Những vụ scandal ầm ĩ đã phản ánh rõ nét nhất bề nổi đầy nhức nhối của làng giải trí Việt.
 
Bằng Kiều, Khánh Ly được cấp phép biểu diễn tại Việt Nam
 
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
Cuối tháng 9/2012, ông Nguyễn Thành Nhân - Trưởng phòng Quản lý biểu diễn và băng đĩa, Cục Nghệ thuật Biểu diễn thông tin tới báo chí: Cục Nghệ thuật Biểu diễn - Bộ VH,TT&DL đã ký giấy phép (số 691/NTBD-PQL) đồng ý cho ca sĩ Khánh Ly và Bằng Kiều về Việt Nam biểu diễn đến hết tháng 12/2012.
Đây không chỉ là tin vui đối với ca sĩ Khánh Ly, Bằng Kiều; đối với người hâm mộ hai giọng hát đặc biệt này mà còn thể hiện cái nhìn thông thoáng, tích cực của cơ quan quản lý trong việc cấp phép biểu diễn cho nghệ sĩ trong và ngoài nước.
Tính đến thời điểm hiện tại, sự trở về nước biểu diễn của Khánh Ly vẫn chưa chắc chắn; tuy nhiên liveshow đầu tiên tại Hà Nội sau 10 năm sinh sống tại hải ngoại của cựu thành viên nhóm Quả Dưa Hấu đã nhận được rất nhiều sự quan tâm và săn đón của công chúng. Xung quanh sự kiện được cấp phép về nước biểu diễn của Khánh Ly, Bằng Kiều có rất nhiều luồng dư luận trái chiều, thành chủ đề “nóng hổi” trên các trang mạng cũng như phương tiện truyền thông.
Liên hoan phim Quốc tế Hà Nội 2012
Tháng 11/2012, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch chỉ đạo Cục Điện ảnh VN triển khai tổ chức Liên hoan phim (LHP) Quốc tế Hà Nội lần 2, sau 2 năm kể từ khi LHP Quốc tế Hà Nội đầu tiên được tổ chức năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
 
7 sự kiện văn hóa nổi bật nhất năm 2012
LHP Quốc tế Hà Nội 2012 được đánh giá thành công về mặt tổ chức khi thu hút được 38 quốc gia và vùng lãnh thổ gửi phim tham dự. LHP Quốc tế Hà Nội với nỗ lực tổ chức chiếu phim cùng lúc trên 9 cụm rạp tại Hà Nội giới thiệu nhiều tác phẩm điện ảnh xuất sắc, nổi tiếng khắp thế giới đã đưa đến cho khán giả cái nhìn toàn cảnh về điện ảnh thế giới nói chung, điện ảnh châu Á nói riêng.
Tuy nhiên, cũng tại LHP Quốc tế Hà Nội lần này, sự góp mặt, dự tranh giải thưởng của điện ảnh nước chủ nhà bị đánh giá lép vế, thua kém so với điện ảnh các nước châu Á khác như Iran, Philippines, Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ… Theo giới phê bình đánh giá, điện ảnh Việt đang tụt lùi, và còn rất lâu nữa mới có thể nói đến hai chữ: Hội nhập.
Hòa nhạc “xuống phố”
Dự án đưa giao hưởng từ sân khấu trang trọng ra… đường phố (cụ thể là góc phố trước cửa số nhà 61 Lý Thái Tổ, Hà Nội) biểu diễn miễn phí vào các ngày cuối tuần đã ra mắt từ năm 2011 và nhận được hiệu ứng tích cực từ khán giả cũng như các nhà chuyên môn.
 
Năm 2011, sáng kiến đưa giao hưởng xuống phố, Luala concert diễn vào 2 ngày
Năm 2011, sáng kiến đưa giao hưởng xuống phố, Luala concert diễn vào 2 ngày cuối tuần tại vỉa hè phố Lý Thái Tổ có mặt trong 10 sự kiện âm nhạc nổi bật trong năm theo bình chọn của Hội nhạc sĩ Việt Nam và nằm trong nhóm đề cử giải Cống hiến năm 2012.
Năm 2012, hòa nhạc Luala concert được đánh giá là chất lượng hơn và thu hút nhiều sự chú ý của dư luận hơn rất nhiều với sự “xuống phố” hát miễn phí của hàng loạt diva như Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh. Luala concert được đánh giá là dự án đưa những thể loại âm nhạc “kén khách” như cổ điển và jazz đến gần hơn với công chúng.

Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống


Sau khi sinh con, cô ca sĩ “cải bắp” rất ít xuất hiện trước công chúng. Tuy vậy, Lưu Hương Giang tiết lộ, đây là thời gian cô tràn trề năng lượng nhất, và chuẩn bị tái xuất với một MV được kỳ vọng sẽ gây bùng nổ vào đầu năm 2013.

Lưu Hương Giang chia sẻ, chưa bao giờ cô lại “đa năng” như thời điểm hiện tại, vừa chăm chỉ đi diễn, vừa chăm chút cho gia đình nhỏ của mình, lại đang chuẩn bị “tổng lực” sức khỏe, giọng hát và nhan sắc cho một music video mới, đồng thời vẫn phải đảm bảo công việc kinh doanh tại spa mà cô là đồng sở hữu được trôi chảy. Lúc nào Giang cũng cảm thấy cơ thể tràn đầy sinh khí.
 Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống
Bận rộn với các show diễn buổi tối, nên Lưu Hương Giang luôn cố gắng giữ “lửa” cho căn bếp của mình vào bữa trưa mỗi ngày. Giang chia sẻ, từ khi có em bé, cô càng trân trọng hơn những giây phút sum họp bên cạnh người thân của mình. Bởi vậy, những buổi tụ tập cuối tuần của cả gia đình được cô “dịch chuyển” sang ngày đầu tuần. Khi ấy, Lưu Hương Giang sẽ trổ tài với món “sở trường” mỳ Ý
 Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống
Khá kín tiếng với giới truyền thông, nhưng Lưu Hương Giang vẫn rất bận rộn với các show diễn. Nữ ca sĩ cũng bật mí, cô đang ghi hình cho một MV mới với ca khúc do chính cô tự sáng tác. Lưu Hương Giang kỳ vọng ca khúc này sẽ tiếp tục gây bùng nổ như bản hit Đừng ngoảnh lại ra mắt đầu năm 2012 và đến nay đã đạt gần 1 triệu lượt nghe trên internet. “Cải bắp” đùa vui, khi nào ca khúc Đừng ngoảnh lại đạt đúng 1 triệu lượt nghe, cô sẽ chính thức tung ra MV mới
 Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống
Để có một hình ảnh thật hoàn hảo trong MV mới sẽ ra mắt đầu năm 2013, Lưu Hương Giang rất chăm chút nhan sắc của mình. Đó cũng là cách để cô thư giãn và hồi phục sức khỏe
 Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống
Lưu Hương Giang có nhiều lợi thế khi làm đẹp tại chính spa của mình. Đây cũng là cách để nữ ca sĩ kiểm tra tay nghề nhân viên
 Lưu Hương Giang tái xuất đầy sức sống
Không chỉ là một ca sĩ “khó tính”, Lưu Hương Giang tự nhận mình còn là một người quản lý khá nghiêm khắc. Nhưng điều đó giúp công việc kinh doanh luôn được duy trì và spa của cô có thể mang lại sự hài lòng cho tất cả khách hàng.

Hai cá voi trôi dạt vào bờ biển Quảng Bình


Ngư dân xã Đức Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) phát hiện hai con cá voi (ngư dân gọi là Ông Ngài) trôi dạt vào bờ biển xã Đức Trạch, trong đó một con đã chết và một con đang được ngư dân chăm sóc.

Ông Hồ Đăng Bảy, ở thôn Đức Trung, xã Đức Trạch - người phát hiện ra hai con cá voi này cho biết: Vào khoảng 20 giờ ngày 22/12, khi đang đi kiểm tra tàu thuyền neo đậu trên bãi biển thì phát hiện một con cá voi chiều dài khoảng 1,2m, nặng khoảng 20kg bơi dạt vào bờ biển. Các ngư dân trong xã đã tìm cách giải cứu và đưa cá ra xa bờ để bơi đi nhưng sau khoảng 15 lần giải cứu, cá đều bơi ngược trở lại vào bờ nên mọi người đã đưa cá lên bờ chăm sóc.
 
Chung tay giải cứu cá voi con mắc cạn
Một chú cá voi vừa được ngư dân Bạc Liêu giải cứu hôm 18/12 (Ảnh: Tuổi Trẻ)

Đến 13 giờ ngày 23/12, thêm một con cá voi khác dài khoảng 1,5m, nặng khoảng 25kg trôi dạt vào bãi biển xã Đức Trạch trong tình trạng đã chết và nằm cách con cá thứ nhất khoảng 50m.

Theo ngư dân địa phương, từ lâu cá voi được cho là rất linh thiêng nơi biển cả. Từ trước đến nay hiếm có trường hợp tương tự như lần này, vì vậy người dân Đức Trạch đã làm lễ mai táng cho con cá đã chết theo tập quán của người đi biển. Ngư dân xã Đức Trạch cho biết, một ngôi đền thờ cá ông cá bà đã được lập cách đây hàng trăm năm với khoảng 300 ngôi mộ.

Hiện tại, ngư dân đã đưa con cá còn sống vào hồ nuôi nhân tạo tư nhân để chăm sóc. Tuy sự việc diễn ra đã 2 ngày nhưng chưa thấy đơn vị, cơ quan chức năng liên quan đến tìm hiểu sự việc hay có động thái nào giúp ngư dân nơi đây chăm sóc con cá voi còn sống.

Torres lập công, Chelsea “trút” 8 bàn vào lưới Aston Villa


Chelsea tạm thời quên đi nỗi buồn ở FIFA Club World Cup 2012 khi đánh bại Aston Villa 8-0 tại Stamford Bridge. Các bàn thắng của đội chủ nhà được ghi do công Torres, David Luiz, Ivanovic, Lampard, Ramires (2 bàn), Hazard và Oscar.
 >> MU bị Swansea cầm chân tại “hiểm địa” Liberty

Chelsea đang hứng chịu nhiều sức ép thời gian qua do thành tích bết bát, nhưng HLV Benitez vẫn tự tin vào sức mạnh của đội nhà qua những phát biểu mạnh miệng trước trận đấu. Cuộc tiếp đón Aston Villa tại Stamford Bridge là cơ hội để The Blues tìm kiếm 3 điểm cho cuộc đua vô địch Premier League.
 
Torres mở tỷ số cho Chelsea ngay ở phút thứ 3
Torres mở tỷ số cho Chelsea ngay ở phút thứ 3
Nhập cuộc đầy khí thế, Chelsea đã chơi tưng bừng và giành chiến thắng đến 8-0 trước Aston Villa thi đấu đầy bạc nhược. Các bàn thắng của đội chủ nhà được ghi do công Torres, David Luiz, Ivanovic, Lampard, Ramires (2 bàn), Hazard và Oscar, một món quà Giáng sinh ý nghĩa dành cho HLV Benitez.
Vòng 18 Premier League
Thứ 7, 22/12/2012
Wigan 0-1 Arsenal
Man City 1-0 Reading
Newcastle 1-0 QPR
Southampton 0-1 Sunderland
Tottenham 0-0 Stoke City
West Brom 2-1 Norwich
West Ham 1-2 Everton
Chủ nhật, 23/12/2012
Liverpool 4-0 Fulham
Swansea 1-1 Man United
Chelsea 8-0 Aston Villa
Đây có thể coi là thắng lợi ấn tượng nhất của CLB thành London từ đầu giải và đoàn quân HLV Benitez phần nào vơi đi nỗi buồn không thể vô địch FIFA Club World Cup. Chelsea đã giành lại vị trí thứ 3 với 31 điểm/17 trận, tạm kém đội đầu bảng MU 12 điểm và Man City 8 điểm.
HLV Benitez đã khá táo bạo khi đôn David Luiz lên đá tiền vệ trung tâm hỗ trợ cho Lampard và Moses. Hazard và Mata hoạt động ở hai cánh hỗ trợ cho mũi nhọn duy nhất Fernando Torres. Với lợi thế sân nhà, Chelsea đẩy cao đội hình lên tấn công ngay từ đầu khiến Aston Villa phải phòng ngự co cụm.
Sức ép liên tục của Chelsea đã được cụ thể hóa ở phút thứ 3. Từ đường tạt bóng khá đơn giản của đồng đội, Fernando Torres đánh đầu đơn giản hạ Guzan, đưa Chelsea vượt lên dẫn trước 1-0. Sau bàn thắng, Chelsea bất ngờ chơi chậm lại trong khi Aston Villa lại bế tắc trong các pha lên bóng.
 
Chelsea tạo ra cơn mưa bàn thắng tại Stamford Bridge
Chelsea tạo ra "cơn mưa bàn thắng" tại Stamford Bridge
Trong khoảng 30 phút đầu tiên, trận đấu không có quá nhiều tình huống quá nét, Chelsea không để lại nhiều dấu ấn về lối chơi. Nhưng đến phút 31, sự tỏa sáng của một cá nhân đã mang lại sự khác biệt. David Luiz thực hiện cú sút phạt kỹ thuật từ ngoài vòng cấm khiến thủ thành Guzan đành bó tay, nhân đôi cách biệt lên thành 2-0 cho Chelsea.
Chelsea chơi không quá ấn tượng, nhưng họ luôn biết cách tận dụng tốt các cơ hội tạo ra. Phút 34, trong một tình huống lập bập trong vòng cấm địa Aston Villa, trung vệ Ivanovic xoay người dứt điểm nhanh đánh bại Guzan, đưa tỷ số lên thành 3-0 cho Chelsea.
Có được 3 bàn thắng sau 3 cơ hội rõ ràng, Chelsea chơi khá ung dung, họ giữ bóng chắc chắn không cho Aston Villa cơ hội phản công ở hiệp 1. Bước sang hiệp 2, Chelsea tiếp tục ép sân và phút 50, Juan Mata tung cú sút xa trái phá và Aston Villa chỉ có thể thoát thua nhờ pha cản phá xuất thần nơi thủ thành Guzan.
Aston Villa đẩy cao đội hình lên tấn công khiến hàng thủ Chelsea phải hoạt động khá vất vả. Nhưng quá mải mê tấn công, đội khách đã phải trả giá ở phút 58. Lampard thực hiện cú sút xa tuyệt đẹp từ cự ly 25m giúp Chelsea dẫn trước 4-0. Đây là bàn thắng có ý nghĩa với Lampard trong trận đấu thứ 500 tại Premier League của mình.
 
Niềm vui chiến thắng của các cầu thủ Chelsea
Niềm vui chiến thắng của các cầu thủ Chelsea
Ba phút sau, Hazard phối hợp ăn ý cùng Mata rồi tung cú dứt điểm nhưng bóng đi chưa đủ khó để hạ thủ thành Guzan. Đến phút 68, cầu thủ vào sân thay người Oscar có cơ hội trong vòng cấm, tuy nhiên cú đá của anh lại đưa bóng đi vọt xà ngang đầy đáng tiếc.
Đang đà hưng phấn, Chelsea tiếp tục cho thấy sự hiệu quả trong tấn công ở phút 74. Nhận đường chuyền của đồng đội, Ramires thực hiện cú sút kỹ thuật khiến thủ thành Guzan không thể với tới bóng. 5-0 đầy dễ dàng cho Chelsea.
4 phút sau, Chelsea được hưởng quả 11m và Oscar bình tĩnh bước lên đánh bại Guzan, đào sâu cách biệt lên thành 6-0 cho đội chủ nhà. Aston Villa gần như đã buông xuôi, trong khi Chelsea đang cho thấy sự hưng phấn nhất định nhằm gỡ gạc lại thất bại ở FIFA Club World Cup 2012 trên đất Nhật Bản.
Đến phút 82, Hazard tung cú đá khó chịu, bóng đập người hậu vệ Aston Villa đi đổi hướng rồi vào lưới giúp Chelsea dẫn 7-0. 6 phút sau, Chelsea tiếp tục được hưởng quả penalty nhưng lần này, thủ thành Guzan đã xuất sắc cản phá được cú sút của cầu thủ vào sân thay người Guzan.
 
Đây là thắng lợi đậm nhất tại Premier League năm nay
Đây là thắng lợi đậm nhất tại Premier League năm nay
Nhưng Chelsea không hề có dấu hiệu dừng lại và đến phút cuối cùng của trận đấu, Ramires tung cú đá tuyệt vời khiến Guzan đành bó tay, hoàn tất cú đúp cho riêng mình và ấn định thắng lợi khó tin 8-0 cho Chelsea tại Stamford Bridge.
Đội hình thi đấu
Chelsea: Cech, Azpilicueta, Ivanovic, Cahill, Cole, Luiz, Lampard (Ramires 61), Moses, Mata (Piazon 74), Hazard, Torres (Oscar 67).
Aston Villa: Guzan, Herd, Clark, Baker, Lowton, Bannan, Westwood (Ireland 57), Lichaj (Elliott 57), Weimann, Holman (Bowery 79), Benteke

NÉT VĂN HOÁ HÀ THÀNH Ngàn năm Thăng Long - Hà Nội qua những cái tên



Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, được ghi trong Đại Việt sử ký, không chỉ là “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đây là một tên gọi hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

Rồng đá trên thềm điện Kính Thiên trong Thành cổ Hà Nội.
Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:
 
Tên chính quy

Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

1. Long Đỗ. - Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị (tức Sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

2. Tống Bình. - Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

3. Đại La. - Đại La hay Đại La Thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm Thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi Vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La. Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “... Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất...” (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241).

4. Thăng Long.
- Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”. Với cách viết thứ nhất, chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích (từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”). Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất. Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.

Có điều đáng chú ý là các từ điển thông dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải (Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất bản sau có khác không), không thấy ghi từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển (tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208), ở chữ “Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng là danh từ chung và được giảng là “rồng bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ là một địa danh hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

5. Đông Đô. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô” (Cương mục - Tập 2, H. 1998, tr.700).

6. Đông Quan. - Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12 năm Mậu Tý (1408) Giản Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh Thành Đông Quan thì chắc phá được chúng” (Toàn thư , Sđd - Tập 2, tr. 244).

7. Đông Kinh. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 Vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là Thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông Kinh” (Toàn thư , Sđd. Tập 2, tr. 293).

8. Bắc Thành. - Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802), vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - 11.1979, tr.12).

9. Thăng Long. - (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi Kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong dân gian cả nước, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “Long” là Rồng thành chữ “Long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà Vua, nay Vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” (Trần Huy Liệu - Chủ biên. Lịch sử Thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).

Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ Hoàng thành cũ, vì Vua không đóng đô ở Thăng Long, mà Hoàng thành Thăng Long lại rộng lớn quá.

10. Hà Nội
- So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử (dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới), thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa...

Trung văn đại từ điển, tập 19 (Đài Bắc 1967, tr.103) cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán (202 Tr.CN - 220 S.CN) nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỷ), kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”. Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị. Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ (thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức), cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, thượng, 3) “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”. Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.
 

Tên không chính quy

Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ Thành Thăng Long - Hà Nội.

1. Trường An - (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 Tr. CN - 8 S.CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ Kinh đô. Từ đó, cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ Kinh đô Thăng Long.

Thí dụ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ Kinh đô Thăng Long.

2. Phượng Thành (Phụng Thành)

Vào đầu Thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng: Phượng Thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa Xuân ở Thành Phượng).

Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa Xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ Thành Thăng Long.

3. Long Biên. - Là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều (Thế kỷ III, IV, V, và VI) đóng trụ sở ở Giao Châu (tên nước ta thời ấy). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877), ghi lại bài thơ của Vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

Long Biên tài hướng Phượng Thành hồi

Triệu đối do hy vĩnh biệt thôi!

Dịch nghĩa:

Nhớ người vừa tự Thành Long Biên về tới Phượng Thành

Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.

Thành Long Biên ở đây, Vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877, Vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

4. Long thành. - Là tên gọi tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của Vua Quang Trung. Sau chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long Thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long Thành).

5. Hà Thành. - Là tên gọi tắt của Thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai(?)...

6. Hoàng Diệu. - Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đôi khi trong các báo chí của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội. (Thành Hoàng Diệu).

Ngoài ra, trong cách nói dân gian còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh Đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ Kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). hoặc trong tác phẩm: Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến); Và đôi khi chỉ dùng một từ như “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô Thăng Long.

Loại tên không chính quy của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều, được người đời sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây chưa hết...

Hệ thống xung đột quốc tế ở Biển Đông: Thực trạng và đặc điểm


Xung đột quốc tế ở Biển Đông không phải là vấn đề mới. Vấn đề này bắt đầu được các học giả nước ngoài và Việt Nam quan tâm nhiều từ nửa cuối thập niên 1980 thế kỷ XX, nhất là sau khi Trung Quốc đưa quân chiếm 7 bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa tháng 3/1988. Các cố gắng nghiên cứu này thường được tiến hành theo ba hướng chính:
1/ Nghiên cứu từ góc độ lịch sử, địa lý và pháp luật quốc tế mà chủ yếu của các bên liên quan trực tiếp nhằm chứng minh chủ quyền của mình đối với vùng biển, đảo này;
2/ Nghiên cứu từ góc độ an ninh chính trị quốc tế nhằm xem xét các khả năng xung đột và đánh giá nguy cơ của chúng đối với quốc gia, khu vực và quan hệ quốc tế;
3/ Nghiên cứu chủ yếu từ góc độ kinh tế nhằm tìm hiểu và đánh giá tiềm năng khai thác kinh tế của Biển Đông về vận tải và tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ,...
Tranh chấp ở Biển Đông là dạng xung đột quốc tế rất phức tạp khi có nhiều đối tượng tranh chấp, với sự tham gia của nhiều bên, lại diễn ra trong một khu vực có vị trí địa lý chiến lược. Thực tiễn này đòi hỏi phải có thêm cách nhìn để có thể đem lại cách tiếp cận toàn diện. Một giải pháp đưa ra cũng sẽ thích hợp hơn nếu dựa trên cách tiếp cận này.
Xuất phát từ lý do đó, bài viết cố gắng đóng góp thêm vào việc làm rõ xung đột quốc tế ở Biển Đông dưới góc nhìn xung đột quốc tế. Bài viết hi vọng có thể giúp ích ít nhiều trong việc đánh giá thực trạng, xem xét tác động, dự báo triển vọng và đề ra giải pháp cho cuộc xung đột phức tạp và còn kéo dài này.
I. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG XUNG ĐỘT QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG
Tranh chấp hay xung đột đều có bản chất là mâu thuẫn. Tình hình xung đột ở Biển Đông phức tạp không chỉ do sự tồn tại đồng thời của nhiều mâu thuẫn và mức độ gay gắt của chúng mà còn bởi sự giằng chéo giữa các mâu thuẫn này. Việc xác định các mâu thuẫn này với đối tượng tranh chấp, chủ thể tham gia và mức độ đối kháng là rất quan trọng đối với việc tìm cách thức giải quyết tranh chấp.
Các mâu thuẫn này sẽ được xem xét lần lượt dựa trên đối tượng tranh chấp. Các đối tượng tranh chấp chính ở Biển Đông là lãnh thổ, an ninh và kinh tế. Trong mỗi đối tượng, có những chủ thể tham gia không như nhau. Mức độ mâu thuẫn cũng khác nhau khi đối tượng tranh chấp càng quan trọng, mâu thuẫn khả năng càng sâu sắc. Hơn nữa, mỗi loại đối tượng tranh chấp đều có những đặc thù riêng nên cũng đòi hỏi những cách thức và cơ chế giải quyết khác nhau. Lẽ dĩ nhiên, sự phân chia như vậy chỉ là tương đối do ba đối tượng này đều liên quan chặt chẽ với nhau. Chính sự liên quan này khiến cho các mâu thuẫn giằng chéo với nhau. Điều này làm nên tính hệ thống của các mâu thuẫn ở Biển Đông. Dưới đây là các mâu thuẫn đó:
+ Mâu thuẫn về lãnh thổ. Trong hệ thống xung đột quốc tế ở Biển Đông, đây là mâu thuẫn phức tạp và khó giải quyết nhất bởi đối tượng tranh chấp khá đa dạng khi bao gồm cả lãnh hải, đảo, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trong đó, tranh chấp lãnh hải và đảo thì khó giải quyết hơn nhiều so với vùng đặc quyền kinh tế bởi chúng gắn liền với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Vấn đề chủ quyền quốc gia vốn là thứ rất khó nhân nhượng và thỏa hiệp, đặc biệt ở Đông Á – nơi vốn có chủ nghĩa dân tộc và ý thức chủ quyền mạnh mẽ. Hơn nữa, lãnh hải và đảo hiện đều thuộc quyền kiểm soát thực tế của bên nào đó nên càng khó nhân nhượng. Từ bỏ cái trong túi mình bao giờ cũng khó hơn từ bỏ cái trong túi người khác. Mâu thuẫn lãnh thổ ở Biển Đông trở nên khó giải quyết hơn là vì vậy.
Mâu thuẫn lãnh thổ ở Biển Đông càng phức tạp và khó giải quyết hơn khi xét về chủ thể tham gia. Mâu thuẫn này liên quan đến hầu hết các nước ven bờ Biển Đông. Có mâu thuẫn song phương, có mâu thuẫn đa phương. Khả năng quốc tế hóa việc giải quyết thì thường bị Trung Quốc khăng khăng phản đối. Trong khi đó, khả năng giải quyết trong nội bộ khu vực thường bị ám ảnh bởi những nghi ngờ lịch sử đối với Trung Quốc, nguy cơ bị nước này ép trên bàn đàm phán cũng như những yếu tố không thuận lợi trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước tranh chấp còn lại. Trong số các bên tranh chấp, Đài Loan là trường hợp khá đặc biệt. Đây là một bên tranh chấp nhưng không thể đàm phán bởi vấn đề tư cách quốc gia không được công nhận. Về yêu sách lãnh thổ, Đài Loan thường đứng về phía Trung Quốc tuy không phối hợp với nhau nhưng có tranh thủ lẫn nhau. Tuy nhiên, khi quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan trở nên căng thẳng, không nên loại trừ khả năng Trung Quốc tấn công quân sự chiếm đảo Ba Bình ở Trường Sa đang do Đài Loan chiếm giữ. Điều này là có thể vì vừa gây áp lực được với Đài Loan trong vấn đề thống nhất, vừa nâng cao được sự kiểm soát của Trung Quốc ở Biển Đông trong khi khả năng Mỹ can thiệp và phản ứng của Đài Loan là thấp hơn nhiều so với việc gây chiến trực tiếp ở eo biển Đài Loan.
Cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở đây cũng không thuận lợi. Trong khu vực chưa hề tồn tại cơ chế như vậy. Tuyên bố ứng xử Biển Đông (DOC) đã tỏ ra không đủ trong khi Bộ Luật ứng xử Biển Đông (COC) lại chưa có. Mặc dù đã có nguồn pháp luật quốc tế là Công ước Luật Biển năm 1982 là cơ sở để giải quyết nhưng các bên thường đưa ra cách giải thích luật khác nhau dựa trên lợi ích và mong muốn khác nhau. Các cơ chế quốc tế giải quyết vấn đề này như Tòa án Quốc tế chẳng hạn thì còn yếu kém, hiệu lực pháp lý quốc tế không cao và dễ bị ý chí của các nước lớn chi phối.
Có thể phân chia các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông thành hai nhóm chính. Nhóm đầu tiên là những tranh chấp lãnh thổ liên quan đến Trung Quốc. Nhóm thứ hai là tranh chấp giữa các nước ASEAN. Đây là sự phân chia dựa theo chủ thể nhưng cũng gắn liền với quy mô đối tượng tranh chấp và mức độ phức tạp của mâu thuẫn. Trong nhóm đầu tiên, mâu thuẫn lớn nhất, phức tạp nhất và cũng thuộc loại khó giải quyết nhất là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Vùng lãnh thổ tranh chấp giữa hai nước này không chỉ rộng nhất về diện tích mà gồm cả lãnh hải, đảo (bao gồm toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngoài vùng đặc quyền kinh tế. Tranh chấp trên biển giữa hai nước còn bị phức tạp thêm bởi nhiều vấn đề song phương khác. Mâu thuẫn thứ hai cũng căng thẳng nhưng đỡ phức tạp hơn là giữa Philippines với Trung Quốc. Đối tượng lãnh thổ tranh chấp nhỏ hơn và được giới hạn ở một phần quần đảo Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Mâu thuẫn thứ ba là nhóm các mâu thuẫn lãnh thổ có mức độ thấp hơn giữa Maylaysia và Brunei với Trung Quốc trong việc đòi chủ quyền ở một phần nhỏ Trường Sa. Trong nhóm thứ hai, mức độ mâu thuẫn cũng liên quan đến quy mô lãnh thổ tranh chấp. Diện tích tranh chấp nhiều nhất là giữa Philippines với Việt Nam. Tiếp đó là Malaysia và Brunei với hai nước trên. Ngoài ra là các tranh chấp khác về thềm lục địa hay vùng đặc quyền kinh tế xảy ra với tất cả các nước ven bờ. Nhìn chung, các tranh chấp liên quan đến Trung Quốc thường diễn ra trong tình trạng phức tạp và căng thẳng, nhất là hai mâu thuẫn đầu. Trong khi đó, nhiều tranh chấp giữa các nước ASEAN đã và đang được giải quyết hoặc ít nhất cũng không dẫn đến sự căng thẳng trong quan hệ.
Trong vấn đề này có bốn điểm đáng chú ý. Thứ nhất, sự tranh chấp sẽ căng thẳng và khó có nhượng bộ đối với đảo và lãnh hải nhưng mức độ kém căng thẳng hơn và cũng có khả năng thỏa hiệp nhiều hơn đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngoài vùng đặc quyền kinh tế. Điều này dẫn đến các mức độ gay gắt khác nhau trong mâu thuẫn lãnh thổ. Và điều đó cũng có nghĩa là khả năng giải quyết tranh chấp đối với từng loại lãnh thổ cũng sẽ khác nhau. Thứ hai, so với lãnh thổ trên bộ, lãnh thổ trên biển là lãnh thổ mới mở rộng với mức độ gắn bó và giá trị thiêng liêng kém hơn nên khả năng điều hòa cũng lớn hơn. Điều này đem lại hi vọng cho khả năng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ biển, kể cả mâu thuẫn lớn nhất trong vấn đề này là giữa Trung Quốc với Việt Nam khi hai bên đã từng giải quyết được vấn đề biên giới trên bộ năm 2000. Thứ ba, có vẻ như các đòi hỏi lãnh thổ của các bên tranh chấp, trừ Việt Nam, đều đã được đẩy lên “tối đa”. Do đó, đòi hỏi lãnh thổ sẽ không tăng lên nữa. Thậm chí, sự “tối đa” trong yêu sách của một vài nước xem chừng cũng có thể là sự “hét giá” để vẫn còn chỗ lùi cho mặc cả. Không loại trừ khả năng đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc là một cố gắng như vậy. Thứ tư, thực tiễn tranh chấp lãnh thổ Biển Đông đã và đang được giải quyết giữa một số nước ASEAN với nhau có thể tạo ra tiền lệ, đem lại kinh nghiệm và cả sự cổ vũ cho xu hướng giải quyết hòa bình tranh chấp ở đây giữa Trung Quốc với các nước còn lại.
+ Mâu thuẫn về an ninh. Đây cũng là mâu thuẫn lớn và phức tạp trong hệ thống xung đột quốc tế ở Biển Đông. Trong mâu thuẫn này, đối tượng tranh chấp khá khác nhau, bao gồm cả yếu tố hữu hình và vô hình. Đối tượng đầu tiên là an ninh lãnh thổ đối với các quốc gia ven bờ Biển Đông. Tranh chấp lãnh thổ luôn được coi là sự xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chủ quyền. Từ đó là sự đe dọa an ninh đất nước. Đây là đối tượng xuất phát từ bản chất của xung đột lãnh thổ. Đối tượng thứ hai là quyền lực. Việc chiếm giữ được các vị trí chiến lược trên Biển Đông và các nguồn tài nguyên ở đó có thể đem lại ưu thế sức mạnh cho quốc gia nào đó. Từ đó, cán cân so sánh quyền lực trong khu vực có thể thay đổi theo hướng có lợi cho quốc gia này mà không có lợi cho các quốc gia khác. Đối tượng thứ ba là sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế khu vực và nguy cơ xung đột tăng lên do tình hình tranh chấp không được giải quyết ở Biển Đông. Điều này đe dọa môi trường ổn định cho phát triển, đe dọa an ninh hàng hải cũng như làm hại tới sự hợp tác giữa các nước liên quan. Đối tượng thứ tư là về các vấn đề an ninh phi truyền thống. Sự chia rẽ trên vùng không gian Biển Đông còn đe dọa tới an ninh môi trường và an ninh con người của cư dân ven bờ,…
Bức tranh xung đột an ninh còn phức tạp hơn bởi chủ thể tham gia. Trong mâu thuẫn đầu tiên, sự đe dọa an ninh lãnh thổ có thể xảy ra với tất cả các bên tranh chấp. Tuy nhiên, mức độ bị đe dọa là khác nhau. Trung Quốc với tiềm lực mạnh hơn hẳn các nước ASEAN nên khả năng bị đe dọa an ninh lãnh thổ là rất thấp. Ngược lại, mức độ bị đe dọa từ bên ngoài đối với các nước ASEAN là khá cao. Đây là mối lo lắng an ninh lớn nhất của các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Trong khi đó, mức độ lo lắng từ sự xung đột giữa các nước ASEAN là rất thấp do khả năng kiểm soát và giải quyết xung đột một cách hòa bình giữa các chủ thể này khá cao.
Trong mâu thuẫn thứ hai, đó là sự lo ngại trước sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc. Ưu thế quyền lực của Trung Quốc được coi là có khả năng kiểm soát Biển Đông. Với đà phát triển của Trung Quốc hiện nay, cán cân quyền lực khu vực có xu hướng tiếp tục nghiêng về Trung Quốc và sự mất cân bằng quyền lực trong khu vực đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, khác với các nước ASEAN, Trung Quốc mưu tìm quyền lực ở Biển Đông không chỉ từ lợi ích khu vực mà còn cả lợi ích toàn cầu. Xu hướng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc được coi là sự đe dọa cả lợi ích của các cường quốc khác bên ngoài Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Australia, ấn Độ, Nga và EU trong tự do hàng hải. Vì thế, trong mâu thuẫn này, đã có sự mở rộng thêm về chủ thể. Đây là những chủ thể mà trong mâu thuẫn lãnh thổ không xuất hiện. Sự tham gia vào mâu thuẫn quyền lực của các cường quốc trên tạo ra hai xu hướng có phần ngược nhau. Xu hướng đầu là cố gắng gia tăng quyền lực khu vực của Trung Quốc trước nguy cơ bị cạnh tranh và điều này khiến cuộc ganh đua quyền lực trong khu vực trở nên gay gắt hơn, ảnh hưởng đến các nước nhỏ nhiều hơn. Xu hướng kia là có thêm khả năng quốc tế hóa giải quyết hòa bình các xung đột ở Biển Đông.
Trong mâu thuẫn thứ ba, đối tượng và khách thể bị tác động tiêu cực bởi xung đột Biển Đông còn lớn hơn nhiều. Chúng bao gồm không chỉ các nước trong khu vực, các cường quốc kể trên mà còn cả các đối tác trên thế giới có quan hệ làm ăn với các nước ở Biển Đông. Tất cả các chủ thể này đều không muốn xung đột ở Biển Đông leo thang sẽ đe dọa tới lợi ích đa dạng và mối quan hệ có lợi của chúng ở trong khu vực, nhất là trong vấn đề an ninh hàng hải vốn liên quan nhiều đến lợi ích của các nước lớn ngoài khu vực cả về phương diện an ninh lẫn kinh tế. Tất nhiên, những nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc là người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi Trung Quốc có khả năng gây sức ép khá đa dạng.
Trong mâu thuẫn thứ tư, khách thể bị tác động bởi các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng có quy mô như trong mâu thuẫn thứ ba. Tuy nhiên, sự trái ngược lợi ích ở đây không sâu sắc bằng do các lợi ích này chưa được coi là cơ bản. Nhưng cũng chính vì điều đó mà dù có khách thể rộng nhưng sự tham gia của các nước bên ngoài vào mâu thuẫn thứ tư không rõ rệt như mâu thuẫn thứ hai và ba.
Các mâu thuẫn trên đều ảnh hưởng lớn tới an ninh của mọi quốc gia ven bờ Biển Đông tuy không giống nhau. Hai mâu thuẫn đầu thuộc về an ninh truyền thống đều đang tạo ra đe dọa và lo ngại rất lớn. Hai mâu thuẫn này có vẻ còn lâu mới giảm bớt. Xét về mức độ, hai mâu thuẫn này cũng sâu sắc hơn nhiều so với mâu thuẫn thứ ba và thứ tư. Hai mâu thuẫn đầu không chỉ khó giải quyết mà còn có xu hướng làm tăng xung đột ở đây. Trong khi đó, hai mâu thuẫn sau ít sâu sắc hơn và có tác động đồng thời nhưng xu hướng thúc đẩy hợp tác nhiều hơn xung đột. Hơn nữa, để tránh sự can dự của các nước lớn ngoài khu vực vào vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng cố gắng kiềm chế không để mâu thuẫn thứ hai trở thành công khai và mâu thuẫn thứ ba trở nên căng thẳng.
Tuy nhiên, cũng như trên, mâu thuẫn an ninh cũng có những yếu tố để kiềm chế. Thứ nhất, xu hướng hòa dịu và tăng cường hợp tác đang là một trào lưu lớn trên toàn thế giới. Xu hướng này buộc các nước phải hạn chế leo thang và kiềm chế xung đột cho phù hợp với bối cảnh quốc tế. Thứ hai, đó là xu hướng tăng cường hợp tác Đông á với sự tham gia của cả Trung Quốc và các nước ASEAN. Xu hướng này khiến các nước Đông á hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Thứ ba, các nước tranh chấp ở Biển Đông đều đang trong giai đoạn phát triển nên cũng không muốn tranh chấp ở đây ảnh hưởng quá nhiều đến đà tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, đó là khả năng can thiệp của các nước lớn tuy không phải quá lớn nhưng chắc chắn cũng là một cái gì có thể tạo ra sự kiềm chế nhất định đối với Trung Quốc. Thứ năm, hiện nay, trong quan hệ quốc tế, có nhiều cách để kiểm soát mâu thuẫn an ninh như xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa, cơ chế giải quyết tranh chấp, hợp tác kinh tế chức năng mới,… Những điều này đem lại hi vọng ngăn chặn hoặc giảm thiểu xung đột an ninh.
+ Mâu thuẫn về kinh tế. So với hai mâu thuẫn trên, mâu thuẫn kinh tế ít sâu sắc hơn nhưng vẫn phức tạp và khó giải quyết do bị gắn với tranh chấp lãnh thổ. Mâu thuẫn này có đối tượng tranh chấp chủ yếu là những tài nguyên biển như các nguồn lợi thủy hải sản và dầu mỏ. Nhưng thứ tài nguyên khiến cho mâu thuẫn ở đây trở nên căng thẳng và khó giải quyết hơn chính là dầu mỏ. Càng phát triển, nhu cầu đối với tài nguyên chiến lược này càng cao, mâu thuẫn về lợi ích dầu mỏ sẽ ngày càng lớn. Đây là đối tượng tranh chấp chủ yếu trong mâu thuẫn về kinh tế của các bên tranh chấp. Chính vấn đề dầu mỏ đang làm quy mô không gian tranh chấp được mở rộng ra không chỉ trên vùng đặc quyền kinh tế mà còn cả trong thềm lục địa ngoài vùng đặc quyền kinh tế. Đáng chú ý, trong lúc mâu thuẫn lãnh thổ đang bế tắc, mâu thuẫn an ninh đang còn phải chờ xem thì mâu thuẫn kinh tế đang được đẩy lên trước trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Việc đẩy các tranh chấp kinh tế lên trước không chỉ bị thúc đẩy bởi các lợi ích kinh tế mà còn như sự dẫn dắt cho các đòi hỏi về lãnh thổ và an ninh. Như vậy, những lợi ích kinh tế, đặc biệt là dầu mỏ đang làm cho việc tranh chấp chủ quyền lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa ở Biển Đông càng thêm phức tạp và khó giải quyết.
Xét về mức độ, mâu thuẫn về dầu mỏ gay gắt hơn nhiều so với mâu thuẫn về đánh bắt hải sản. Sự gay gắt này được quy định bởi tính chất chiến lược của dầu mỏ cũng như nhu cầu đối với nguồn năng lượng này là lớn và quan trọng hơn rất nhiều so với hải sản. Khu vực tranh chấp nào có tiềm năng dầu mỏ thì mâu thuẫn càng sâu sắc và trở nên khó giải quyết hơn. Tiềm năng dầu mỏ càng lớn, nguy cơ xung đột càng gay gắt và khó giải quyết. Thậm chí, đã có ý kiến cho rằng “việc tìm thấy dầu khí có thể tạo ra một tình huống rất nguy hiểm”(1).
Mâu thuẫn này được thể hiện trong sự tranh chấp quyền khai thác các tài nguyên trên những vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Vì thế, cũng giống như trên, hầu hết các nước ven bờ Biển Đông có tranh chấp lãnh thổ đều là chủ thể tham gia vào mâu thuẫn này. Trong số đó, mâu thuẫn đầu tiên về các nguồn lợi kinh tế và dầu mỏ phức tạp nhất và căng thẳng nhất cũng lại rơi vào quan hệ Việt Nam-Trung Quốc với địa bàn tranh chấp rộng, có cả lãnh hải và đảo nằm trong. Đó là một nơi tiềm năng dầu mỏ ngoài khơi Biển Đông đã được chứng tỏ, còn một nơi thì đang trong “cơn khát dầu” ngày càng tăng cùng đà phát triển. Nhóm mâu thuẫn thứ hai là trong quan hệ tay ba giữa Trung Quốc, Philippines và Việt Nam liên quan đến một phần quần đảo Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế gần đó mà Philippines đòi hỏi. Mâu thuẫn này cũng tương đối căng thẳng nhưng mức độ không bằng mâu thuẫn trên, ít nhất cũng đã tồn tại cố gắng hợp tác trong nhóm này dù còn nhỏ nhoi. Nhóm mâu thuẫn thứ ba là giữa Trung Quốc với các nước tranh chấp khác. Nhóm mâu thuẫn này ít căng thẳng hơn bởi có quy mô nhỏ hơn, ít quan trọng hơn và lại được nấp đằng sau sự tranh chấp Việt Nam-Trung Quốc. Nhóm mâu thuẫn thứ tư là giữa các nước ASEAN có tranh chấp với nhau, ngoại trừ tranh chấp Việt Nam-Philippines mà trên đã đề cập. Trong nhóm này, phần lớn tranh chấp giữa các nước đó hoặc đã được giải quyết hoặc ít có khả năng tạo sự căng thẳng trong quan hệ.
Tuy nhiên, mâu thuẫn này cũng được kiềm chế phần nào bởi một loạt lý do sau: Thứ nhất, giống như trong vấn đề an ninh, xu hướng tăng cường hợp tác kinh tế trên thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế khu vực Đông á là những tác nhân rất quan trọng giúp đem lại khả năng giải quyết tranh chấp kinh tế. Đáng chú ý, giữa các nước Đông á đã bắt đầu có được chương trình hợp tác trong khuôn khổ ASEAN+3 về an ninh năng lượng. Các xu hướng này đang giúp việc giải quyết những tranh chấp kinh tế được thuận lợi hơn so với các mâu thuẫn an ninh. Thứ hai, theo tính toán lợi-hại vốn là cách tính toán phổ biến trong chính sách đối ngoại các nước trong khu vực, tiếp tục tranh cãi với nhau về các nguồn lợi kinh tế ở Biển Đông sẽ khiến các bên không được gì mà còn có thể bị mất nhiều thứ khác không chỉ là mỗi kinh tế. Còn hợp tác thì có thể không được tất cả nhưng ít nhất cũng còn được cái gì đó trong kinh tế và những tác động thuận lợi cho hợp tác trong các lĩnh vực khác. Thứ ba, các tranh chấp lợi ích kinh tế vốn ít nhạy cảm với chủ quyền quốc gia và tinh thần dân tộc hơn so với vấn đề lãnh thổ và an ninh nên việc giải quyết cũng sẽ đỡ khó khăn hơn, ít nhất thì khả năng giải quyết tranh chấp kinh tế theo hướng có đi có lại sẽ ít chịu áp lực phản đối trong nước hơn. Thứ tư, đây là lĩnh vực tranh chấp có nhiều tiền lệ giải quyết thành công nhất so với vấn đề lãnh thổ và an ninh của chính các nước trong khu vực. Trung Quốc thì có trường hợp giải quyết tranh chấp Đông Hải với Nhật Bản, còn Việt Nam và các nước ASEAN khác như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Campuchia cũng đã giải quyết được cơ bản các tranh chấp kinh tế tương tự ở những khu vực chồng lấn.
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG XUNG ĐỘT QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG
Mỗi hệ thống xung đột đều có đặc thù riêng. Phương thức giải quyết tranh chấp sẽ khả thi hơn, các biện pháp khắc phục mâu thuẫn sẽ thích hợp hơn nếu chúng được xây dựng trên cơ sở tính đến những đặc điểm này. Cùng với xác định hệ thống các mâu thuẫn, việc tìm hiểu đặc điểm của tình hình xung đột ở đây cũng là cần thiết trong việc giải quyết vấn đề xung đột phức tạp này. Không có giải pháp chung cho mọi cuộc xung đột đơn giản bởi vì mỗi xung đột đều có đặc điểm riêng. Theo chúng tôi, hệ thống xung đột quốc tế ở Biển Đông có một số đặc điểm nổi bật dưới đây:
+ Hệ thống mâu thuẫn ở Biển Đông gồm ba nhóm mâu thuẫn chính là mâu thuẫn lãnh thổ, mâu thuẫn kinh tế và mâu thuẫn an ninh như trên đã đề cập. Ba mâu thuẫn chủ yếu này gắn bó mật thiết và có sự giằng chéo với nhau, làm nên hệ thống mâu thuẫn ở Biển Đông. Mâu thuẫn lãnh thổ tạo nên cơ sở quy định hai mâu thuẫn kia. Trong khi mâu thuẫn an ninh lại làm mâu thuẫn lãnh thổ sâu sắc hơn và mâu thuẫn kinh tế khó giải quyết hơn. Còn mâu thuẫn kinh tế không chỉ làm phức tạp thêm mâu thuẫn lãnh thổ mà còn làm tạo thêm vấn đề cho mâu thuẫn an ninh. Vì thế, việc giải quyết mâu thuẫn này khó mà tách rời khỏi mâu thuẫn khác. Điều này đem lại gợi ý cho một giải pháp phải tính đến tổng thể lợi ích đa dạng của các bên tranh chấp. Có thể giải quyết từng loại hình mâu thuẫn nhưng phải được đặt trong tổng thể lợi ích và việc giải quyết từng mâu thuẫn cần được coi là những bước đi trong một quá trình lâu dài để tiến tới giải quyết cơ bản xung đột ở Biển Đông.
+ Cả ba nhóm mâu thuẫn đều thuộc loại khó giải quyết. Các mâu thuẫn này đều liên quan đến lợi ích cơ bản của quốc gia nên rất khó điều hòa. Trong đó, mâu thuẫn về lãnh thổ khó giải quyết nhất bởi mang đậm màu sắc của trò chơi tổng số bằng 0 (Zero sum game), tức là cái được của bên này là cái mất của bên kia (win-lose). Mâu thuẫn này cũng chỉ tập trung trong quan hệ trực tiếp giữa các bên tranh chấp nên các yếu tố bên ngoài không giúp gì nhiều cho việc giải quyết. Mâu thuẫn an ninh cũng khó giải quyết nhưng vẫn còn đỡ hơn do vẫn có khả năng các bên đều được (win-win). Mâu thuẫn này có quy mô ảnh hưởng rộng hơn nên có thể tranh thủ các tác động tích cực từ bên ngoài. Mâu thuẫn về kinh tế cũng có quy mô tương đối rộng nhưng mức độ gay gắt thấp hơn nên có khả năng giải quyết hơn hai mâu thuẫn trên. Để hạn chế xung đột căng thẳng và thương lượng bế tắc, có lẽ cũng cần tính đến khả năng hợp tác trong mâu thuẫn này để giải quyết tranh chấp trong các mâu thuẫn kia
+ Xung đột ở Biển Đông là dạng xung đột rất phức tạp. Tính phức tạp của xung đột này được quy định bởi sự đa dạng về đối tượng tranh chấp, chủ thể tham gia và mức độ đối nghịch khác nhau trong từng loại hình mâu thuẫn. Sự phức tạp của các mâu thuẫn này còn tăng lên bởi những yếu tố như lịch sử và tâm lý. Lịch sử xung đột và chia rẽ kéo dài trong khu vực, ý thức chủ quyền và tinh thần dân tộc mạnh mẽ, truyền thống đấu tranh lớn hơn hợp tác, sự thù hằn lịch sử và định kiến dân tộc, sự “ghét cái thái độ”, sự nghi ngờ lẫn nhau… đều đang làm xung đột thêm phần sâu sắc. Đặc điểm này đem lại yêu cầu phải tính đến các yếu tố đó trong quá trình giải quyết xung đột. Tuy nhiên, tình trạng trên không phải lúc nào cũng có hoặc như nhau trong mọi cặp quan hệ ở đây. Điều đó tức là phải có cách tiếp cận riêng cho từng chủ thể. Và với chủ thể nào thì đều cần có cách tiếp cận rộng rãi với những giải pháp trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trên cả hai kênh nhà nước-nhà nước và nhân dân-nhân dân.
+ Xung đột ở Biển Đông là dạng xung đột cả về lợi ích và cách thức giải quyết. Tất nhiên, lợi ích xung đột trung tâm ở đây là chủ quyền nhưng bên cạnh đó còn có những lợi ích khác nữa. Việt Nam rõ ràng có chứng cứ pháp lý và lịch sử một cách thuyết phục về chủ quyền của mình ở Biển Đông. Tuy nhiên, chỉ dựa vào mỗi các chứng cứ này thì chưa đủ mà còn cần tính đến lợi ích của những nước liên quan. Các lợi ích này khá khác nhau và thậm chí là đối chọi nhau. Không những thế, quan niệm về cách thức giải quyết cũng có nhiều bất đồng. Trong hai cái này, mâu thuẫn về lợi ích là mấu chốt cơ bản và quy định nhiều bất đồng trong cách thức giải quyết. Tuy nhiên, lợi ích thì có nhiều với những mức độ mâu thuẫn khác nhau nhưng cũng có những lợi ích gần gũi với nhau. Đồng thời, giữa các bên tranh chấp cũng có những điểm chung trong cách thức giải quyết. Điều này đem lại hai gợi ý cho giải pháp. Một là vẫn đặt giải pháp trong tổng thể nhưng có chọn lựa ưu tiên giải quyết trước những xung đột lợi ích ít phức tạp hơn. Hai là sử dụng lợi ích chung và những điểm chung trong cách thức giải quyết như nguyên tắc quan hệ để duy trì đối thoại.
+ Xung đột ở Biển Đông là dạng xung đột cả song phương lẫn đa phương. Tuy nhiên, tranh chấp lãnh thổ diễn ra trong quan hệ song phương nhiều hơn đa phương. Cảm nghĩ về tình trạng này còn tăng lên có phần do Trung Quốc chủ trương như vậy và bản thân các nước ASEAN cũng chưa có được lập trường thống nhất và sự phối hợp chung để cùng giải quyết. Một lý do khác là khu vực này chưa có cơ chế đa phương để giải quyết các nguy cơ đe dọa chung là tranh chấp lãnh thổ của một vài nước trong khu vực. Hơn nữa, các nước lớn ngoài khu vực và một số nước trong vùng hay có xu hướng né tránh can dự vào tranh chấp lãnh thổ mà không phải của họ. Nhìn chung, mâu thuẫn lãnh thổ có vẻ khó giải quyết đa phương (trừ tranh chấp nhiều bên) nhưng mâu thuẫn an ninh và kinh tế lại có khả năng này do tính phụ thuộc lẫn nhau về an ninh và kinh tế giữa các nước trong vùng có xu hướng tăng. Điều này đem lại gợi ý cho giải pháp rằng cần thiết có sự kết hợp linh hoạt giữa song phương và đa phương và không nên coi nhẹ cái gì cả. Tuy nhiên, cần tập trung thúc đẩy giải quyết đa phương những vấn đề an ninh và kinh tế. Những cơ chế đa phương đạt được trong an ninh và kinh tế ở Biển Đông cùng với những phát triển trong quan hệ song phương sẽ tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Ngoài ra, trong giải quyết xung đột lãnh thổ, những gì tranh chấp giữa hai nước (Hoàng Sa) thì có thể giải quyết song phương, những gì tranh chấp giữa nhiều nước (Trường Sa) thì cần giải quyết đa phương mà không bỏ qua hay coi nhẹ bất cứ nước nào.
+ Xung đột ở Biển Đông là dạng xung đột quốc tế khi diễn ra giữa các quốc gia trong vùng và đều nằm trong những lĩnh vực quan hệ quốc tế chủ yếu,. Không những thế, xung đột này còn liên quan đến nhiều nước lớn trên thế giới nên quy mô ảnh hưởng của nó không giới hạn trong khu vực Đông á mà có tầm ảnh hưởng rộng hơn ra bên ngoài. Nói cách khác, khách thể của nó bao gồm cả quốc gia, khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mức độ quốc tế của xung đột lại không như nhau trong từng mâu thuẫn. Các nước lớn ngoài khu vực quan tâm tới vấn đề quyền lực trong lợi ích an ninh, vấn đề dầu mỏ và hàng hải trong lợi ích kinh tế của họ ở Biển Đông, trong khi né tránh dính líu vào cuộc cãi vã về chủ quyền lãnh thổ. Điều này đem lại gợi ý cho cách thức quốc tế hóa việc giải quyết xung đột nhưng có chọn lựa lĩnh vực, vấn đề và đối tác bên ngoài cho phù hợp và có tính hiệu quả. Không thể hi vọng vào việc quốc tế hóa mọi mâu thuẫn ở Biển Đông. Mặc dù vậy, các biện pháp giải quyết cũng cần được đặt trong bối cảnh và luật pháp quốc tế thì khả năng thực thi cũng sẽ cao hơn.
+ Xung đột ở Biển Đông là dạng xung đột bất cân xứng. Một bên xung đột là Trung Quốc có sức mạnh lớn hơn hẳn so với các nước tranh chấp còn lại. Điều đó có nghĩa là chìa khóa giải quyết xung đột ở Biển Đông nằm trong tay Trung Quốc nhiều hơn là các nước tranh chấp khác. Điều đó cũng có nghĩa là xung đột này có leo thang hay không, có sử dụng bạo lực quân sự hay không cũng sẽ xuất phát từ phía Trung Quốc chứ ít có khả năng từ phía ngược lại. Đặc điểm này đem lại gợi ý cho giải pháp lâu dài là cần tính đến lợi ích của Trung Quốc nhưng phải có nguyên tắc, lộ trình và giới hạn bất khả xâm phạm. Ngoài ra cũng có thể thấy rằng, trên thực tế, các động thái của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông còn chịu tác động nhiều từ tình hình đối nội và đối ngoại của Trung Quốc cũng như bối cảnh quốc tế và khu vực. Đây là những nơi chứa đựng các yếu tố hoặc kiềm chế, hoặc kích thích động thái tranh chấp của Trung Quốc.
Như vậy, hệ thống mâu thuẫn ở Biển Đông là rất phức tạp và còn kéo dài. Tuy các mâu thuẫn ở đây là lớn và sâu sắc nhưng triển vọng không quá bi quan. Trong các mâu thuẫn đều có những yếu tố kiềm chế và những tác nhân cho việc điều hòa lợi ích, hạn chế tranh chấp. Điều này có nghĩa là việc kiểm soát xung đột là khả thi và cũng có thể hi vọng vào khả năng giải quyết phần nào xung đột./.

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Top 10 đột phá y học thế giới năm 2012

Tạp chí Time của Mỹ vừa công bố “10 đột phá y học năm 2012”. Đây chính là những tiền đề cho những hướng phát triển mới của y học trong tương lai.

1. Phát hiện tầm quan trọng của những đoạn gien “không được mã hóa”
Top 10 đột phá y học 2012

 
Sau khi bị cho là vô dụng về mặt di truyền, các vùng không mã hóa của gen vốn chiếm tới 98% gen thực chất lại mang 1 mục đích rất quan trọng. Nó cho thấy những vị trí vốn không quan trọng trong ADN trước đây thực chất lại là “đạo diễn” hay chỉ huy sự chuyển hóa các chức năng của gen cũng như sản xuất ra các protein tương ứng. Và nếu không có chúng thì gen sẽ giống như 1 đống từ ngữ xếp lộn xộn vô nghĩa.

Các nhà khoa học hiện đang khai thác kho thông tin sinh học mới này và đang theo đuổi những cách kiểm soát mới mà có thể sẽ giống như việc “bật - tắt” một gien nào đó để điều trị 1 số bệnh.

2. Chữa bệnh - Khả năng chưa biết của vi sinh vật
 Top 10 đột phá y học 2012
Thành phần nào đông đảo nhất trong cơ thể người? Tế bào ư? Không. Gen? Chưa chuẩn lắm. Đó chính là vi sinh vật. Những vi sinh vật này, bao gồm cả vi khuẩn, sống trong, trên và xung quanh chúng ta với tỉ lệ so với tế bào là 10:1. Và các nhà nghiên cứu vừa hoàn thành giai đoạn đầu tiên của dự án Bộ gen vi khuẩn ở người, một bộ gen toàn diện nhất về những vi sinh vật và những hoạt động của chúng.

Hầu hết trong số chúng là bạn của con người, chúng làm việc rất chăm chỉ để đảm bảo rằng thức ăn được tiêu hóa, hệ miễn dịch ngày càng mạnh mẽ. Nhưng rồi các nhà khoa học phát hiện ra rằng các vi khuẩn này đóng vai trò quan trọng trong 1 số bệnh mãn tính, bệnh viêm nhiễm và béo phì. Bỏ qua những nhóm vi sinh vật không mời mà đến, một số vi sinh vật có thể giúp chúng ta điều trị những vấn đề sức khỏe dai dẳng, khó chịu nhất.

3. Vắc-xin phòng HIV được thử nghiệm mở rộng

Top 10 đột phá y học 2012
Là 1 vũ khí mạnh chống lại HIV nhưng Truvada, 1 loại thuốc kết hợp từ 2 thuốc kháng vi rút, hiện là loại thuốc đầu tiên giúp loài người ngăn chặn sự xâm nhập của vi rút HIV vào cơ thể.

Sau khi thử nghiệm đột phá cho thấy rằng các cá nhân không bị nhiễm bệnh khi sử dụng thuốc Truvada, Cục Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ đã cho thử nghiệm mở rộng trên đối tượng nam giới khỏe mạnh nhưng có nguy cơ cao như người đồng tính. Kết quả cho thấy nguy cơ nhiễm HIV ở nhóm nam giới đồng tính giảm từ 42-75%.

4. Công nghệ tế bào gốc phát huy tác dụng lớn
 Top 10 đột phá y học 2012
Không giống như gan, thận, khí quản là bộ phận không thể ghép từ người này sang người kia. Nhưng nhờ sự phát triển của lĩnh vực tế bào gốc, người bệnh có thể tự “nuôi dưỡng” 1 khí quản mới.

Các nhà nghiên cứu tại Học viện Karolinska (tThụy Điển) đã tiêm tế bào gốc lấy từ tủy xương của chính bệnh nhân vào 1 bộ khung khí quản hiến tặng nhưng đã được loại bỏ tất cả các tế bào. Bộ khung này sẽà được ghép vào cơ thể người bệnh và cơ thể sẽ tự nuôi dưỡng nó đến khi hoàn chỉnh.

Đây là bước tiến hoàn toàn mới so với việc sử dụng tế bào gốc tạo khí quản năm 2008, khi đó chỉ có thể nuôi dưỡng khí quản mới ở bên ngoài cơ thể người bệnh.

Kỹ thuật này mở ra hướng phát triển y học tái sinh, ở đó bất kỳ bộ phận nào cần thay thế, sửa chữa đều có được tạo ra bởi chính cơ thể người bệnh.

5. Chữa bệnh tự kỷ bằng cách thay đổi hoạt động của não bộ
 Top 10 đột phá y học 2012
 
Một thông tin mới đầy hứa hẹn cho các bậc cha mẹ có con tự kỷ đó là sự khẳng định của các nhà nghiên cứu về việc áp dụng liệu pháp hành vi sớm sẽ giúp các phần não chịu trách nhiệm chi phối hành vi đặc trưng của trẻ tự kỷ trở về bình thường.

Những đứa trẻ có chẩn đoán tự kỷ đã tham gia vào Mô hình can thiệp sớm Denver, bao gồm các hoạt động ngôn ngữ và giao tiếp xã hội sớm cho trẻ mới biết đi. Kết quả cho thấy có sự thay đổi đáng kể của não bộ trong cách xử lý hình ảnh mặt người.

Ví như nếu trước khi tham gia mô hình này, não bộ hoạt động nhiều hơn khi trẻ nhìn thấy những vật vô tri như đồ chơi so với khi nhìn gương mặt thì sau 2 năm điều trị theo mô hình này, não bộ có phản ứng ngược lại, gần giống với trẻ bình thường.

Điều này đã mang lại hy vọng khả năng ngăn chặn một số những thay đổi của não bộ liên quan với bệnh tự kỷ, thậm chí còn chuyển hóa nó theo hướng tốt lên.

Tuy nhiên, chìa khóa thành công của chương trình này là nhân viên tư vấn phải được đào tạo chuyên sâu và số giờ trẻ tham gia phải đảm bảo.

6. Phát hiện các nhóm gen giúp điều trị ung thư vú trở nên đơn giản
 Top 10 đột phá y học 2012
Ung thư vú là một bệnh phức tạp, có sự liên quan chặt chẽ với di truyền và lối sống. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới nhất về ADN trong các khối u vú, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng thực chất của bệnh này đơn giản hơn họ nghĩ rất nhiều.

Dự án Cancer Genome Atlas của chính phủ Mỹ đang xây dựng, tập hợp toàn bộ gen của các dạng ung thư và đã tìm thấy hơn 30.000 gen đột biến ở 510 mẫu u vú và được chia thành 4 phân nhóm chính. Một nhóm cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ với ung thư buồng trứng, mở ra khả năng điều trị ung thư vú mới. Một nhóm khác thì giúp giải thích tại sao có những bệnh nhân ung thư vú đáp ứng điều trị tốt hơn người khác. Những kiến thức này sẽ giúp bác sĩ có thêm nhiều chẩn đoán và điều trị phù hợp, giúp tăng cơ hội sống sót cho người bệnh.

7. Rút ngắn thời gian phân tích gen
 Top 10 đột phá y học 2012
50 giờ là thời gian đủ để giúp giải mã toàn bộ gen của 1 trẻ sơ sinh, giúp kéo dài khoảng cách giữa sự sống và cái chết cho 1 đứa trẻ bị bệnh nặng.

Bằng cách so sánh với 3.500 gen di truyền liên quan với các khuyết tật bẩm sinh ở trẻ và cho kết quả, các bác sĩ sẽ nhanh chóng ra quyết định điều trị phù hợp, tốt nhất cho cuộc sống của đứa trẻ.

8. Giải mã gen ung thư ở bệnh nhi
 Tỉ lệ sống sót
Tỉ lệ sống sót ở bệnh nhi ung thư đang được cải thiện ấn tượng trong những năm gần đây nhờ việc phát hiện sớm và các phương pháp điều trị bao gồm phẫu thuật, hóa trị và xạ trị. Vì vậy, các bác sĩ hy vọng rằng Dự án Gien ung thư nhi kéo dài 3 năm với số tiền lên tới 65 tỉ đô la Mỹ sẽ giúp tạo thêm ra nhiều phương pháp hiệu quả giúp cho bệnh nhi ung thư.

Việc hiểu rõ những gen gây ung thư có thể sẽ giúp bác sĩ đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả nhất hoặc tạo ra các loại thuốc mới có thể cản trở sự phát triển của các tế bào bất thường, giúp tỉ lệ sống sót của trẻ lên cao hơn nữa.

9. Tạo ra cá thể hoàn chỉnh từ tế bào gốc
 Tỉ lệ sống sót
Các tế bào gốc thể giúp điều trị bệnh tiểu đường, giúp bệnh nhân bị liệt đi lại được, sửa chữa mô tim bị hư hại nhưng tạo ra trứng và tinh trùng thì dường như là không thể.

Vậy nhưng thách thức cực lớn này đã được vượt qua. Các nhà khoa học Nhật Bản đã sử dụng 2 loại tế bào gốc của chuột, 1 là từ da và 1 là từ phôi vài ngày tuổi, tạo thành trứng và tinh trùng rồi cho thụ tinh và con chuột đầu tiên được sinh ra. Thành công này đã mở ra phương pháp điều trị vô sinh mới.

10. Vi rút “tiêu diệt” mụn trứng cá
 Đôi khi
Đôi khi cách tốt nhất là “lấy độc trị độc” và điều này rất đúng với phương pháp trị mụn mới: đó là sẽ đưa 1 loại vi rút có khả năng chống lại các vi khuẩn gây viêm da. Những vi rút này được đưa vào qua các lỗ chân lông và vi rút này sẽ xâm nhập vào các vi khuẩn cư trú sâu trong lỗ chân lông và tiêu diệt các vi khuẩn này.

Vi rút này sẽ được đưa vào kem bôi, giúp các thiếu niên thoát khỏi nỗi ảm ảnh làn da đầy mụn bọc, mụn mủ.

Bệnh sống trong sợ hãi

Ám ảnh là một rối loạn tâm lý thường gặp và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cũng như công việc của người bệnh. Chúng khiến bệnh nhân lo lắng thường xuyên, đôi khi gây nên những cơn hoảng sợ tột độ.

 Trẻ em dễ bị nhất
 
Trẻ em dễ bị nhất

Được bố mẹ đưa đến viện Sức khoẻ tâm thần khám, Nguyễn Văn An, 9 tuổi luôn tỏ ra lo lắng, liên tục đưa ra những câu hỏi lặp đi lặp lại. Bố mẹ An cho biết, An sinh ra khoẻ mạnh và phát triển bình thường, nhưng khoảng vài tháng nay, cậu bé luôn tỏ ra lo lắng về bệnh tật, rửa tay liên tục, không chắc chắn về hành động của chính mình, cần được trấn an, các hành vi lặp đi lặp lại.

Khi đọc một đoạn trong tài liệu được giao, cậu bé thường đọc tới cuối câu, chỉ để kiểm tra xem mình có bỏ sót từ nào không. Đặc biệt, An còn sợ là mình đã tiếp xúc với vi rút HIV do người bị bệnh AIDS lây cho! Mặc cho ba mẹ ra sức trấn an, cậu bé nhất quyết phải tắm ngay khi về đến nhà... Tiếp xúc với bác sĩ, An thừa nhận rằng trí óc của cậu đang lừa mình, khiến cậu phải hỏi lại bố mẹ cho chắc. An được chẩn đoán có biểu hiện mắc chứng rối loạn nghi thức ám ảnh.

Theo y văn, rối loạn nghi thức ám ảnh (Obsessive – Compulsive Disorder – OCD) có biểu hiện là những ý nghĩ thường xuyên tái diễn liên quan tới những lo âu căng thẳng, những hoạt động tâm thần hoặc thể chất có chủ ý lặp đi lặp lại để giảm sợ hãi hoặc căng thẳng do ám ảnh gây ra. Phần lớn các ca OCD đều bắt đầu từ thời kỳ thiếu niên hoặc tuổi dậy thì. Rối loạn nghi thức ám ảnh phổ biến ở trẻ em và tuổi mới lớn với tỷ lệ 0,5% và tỷ lệ suốt đời là 1 - 3%. Tỷ lệ OCD ở người trẻ tuổi tăng theo cấp số nhân cùng tuổi đời, với tỷ lệ 0,3% ở trẻ trong độ tuổi 3 - 5 tuổi, lên 0,6% đối với trẻ 13 - 18 tuổi. Tỷ lệ mắc OCD ở trẻ vị thành niên cao hơn tỷ lệ mắc các bệnh khác như tâm thần phân liệt hay rối loạn lưỡng cực. Ở trẻ nhỏ, tỷ lệ bé trai mắc OCD cao hơn một chút so với bé gái, nhưng chênh lệch này giảm khi độ tuổi tăng lên.

Do những nguyên nhân nào?

Rối loạn nghi thức ám ảnh được chỉ ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nhân tố di truyền. OCD đã được công nhận là có tính gia đình và là rối loạn do hỗn tạp nhiều gen không đồng nhất. Các nghiên cứu phả hệ, các xét nghiệm phân tử đã chứng minh nguy cơ mắc OCD khởi phát sớm có thể cao gấp bốn lần ở những người thân thế hệ thứ nhất.

Nguyên nhân thứ hai: do miễn dịch ở hệ thần kinh. Sự xuất hiện của hội chứng OCD sau khi tiếp xúc hoặc nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết bêta – nhóm A ở một nhóm nhỏ trẻ nít và trẻ vị thành niên đã dẫn tới những nghiên cứu về phản ứng miễn dịch ở OCD.

Thứ ba, do chất dẫn truyền thần kinh. Sự có mặt của một số hệ thống dẫn truyền thần kinh, bao gồm hệ thống serotonin và hệ thống dopamine được coi là điều kiện cơ bản để gây ra OCD.

Dấu hiệu mắc bệnh

Người bệnh thường dành quá nhiều thời gian vào những ý nghĩ lung tung (người bệnh biết là không đúng nhưng không thể xua đuổi khỏi tâm trí) và những nghi thức lặp đi lặp lại. Có người trước khi ra khỏi nhà đã khoá cửa, nhưng ngay khi vừa đi khỏi thì trong đầu đã hoài nghi “mình đã khoá cửa chưa”, thế là phải quay lại kiểm tra. Thấy cửa đã khoá, họ yên tâm được một chút nhưng ngay không lâu sau đó lại xuất hiện hoài nghi “đã khoá cửa chưa”. Những nghi thức cưỡng bức lặp đi lặp lại như thế được cho là hợp lý để đối phó với nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy ảnh hưởng có hại của ám ảnh đến các hoạt động thường ngày.

Nỗi ám ảnh thường thấy nhất là nỗi sợ cực độ bị nhiễm bệnh và sợ chất bẩn, mầm bệnh, vi trùng (dẫn đến rửa tay nhiều lần, đi khám bác sĩ thường xuyên…), đứng thứ hai là nỗi sợ những nguy hiểm có thể xảy đến với bản thân hoặc người thân, sợ khoảng trống, sợ chỗ đông người và khó khăn trong việc kiểm soát nỗi sợ làm hại người khác do mất kiểm soát trong những giây phút nóng giận (nhiều người cứ thấy dao kéo là sợ vì ý nghĩ họ sẽ khó kiểm soát khi dùng chúng và gây hại cho người khác).

Nghi thức ám ảnh điển hình bao gồm dọn dẹp, kiểm tra, hành vi lặp đi lặp lại, và tránh né, do dự, nghi ngờ, chậm hoàn thành công việc. Hầu hết các trường hợp mắc OCD đều có sự xuất hiện cả ý nghĩ ám ảnh và hành động cưỡng bức.

Điều trị: phối hợp thuốc và liệu pháp hành vi

Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học trên thế giới với OCD ở trẻ em cho thấy việc điều trị bằng sertralin giúp 50% bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn, 25% khỏi bệnh một phần với thời gian theo dõi một năm. Tuy nhiên, trong một số ít các ca bệnh, chẩn đoán OCD có thể được coi là dấu hiệu của một dạng rối loạn tâm thần, điều này đã được tìm thấy ở 10% trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên mắc OCD trong mẫu nghiên cứu. Với trẻ em có triệu chứng dưới ngưỡng OCD, nguy cơ chuyển thành OCD toàn diện trong hai năm là rất cao. Đối với người lớn tuổi, kết quả điều trị khả quan với tỷ lệ thành công cao hơn (70%).

Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy phương pháp chữa trị tối ưu là phối hợp điều trị bằng các thuốc tác động trên serotoninergic và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT). Nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên dùng thuốc, kết hợp cả thuốc và can thiệp nhận thức hành vi ở người mắc OCD cho thấy kết quả điều trị tốt hơn so với các rối loạn lo âu khác.