Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Lối sống đặc trưng của người Hà nội



Trải qua quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước với bao thăng trầm và biến động nhưng những phẩm chất tốt đẹp và giá trị tinh thần bền vững vẫn in đậm trong lối sống của người Thăng Long - Hà Nội., đó là:
Lòng tự trọng bắt nguồn từ ý thức dân tộc, trân trọng và tự hào về truyền thống vẻ vang của tổ tiên, ông cha trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cũng như trong quá trình cách mạng và kháng chiến. Người Hà Nội luôn luôn trân trọng và tự hào về những chiến thắng lẫy lừng chống ngoại xâm trên đất "Rồng bay".
Lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hòa bình. Lòng nhân ái của người Hà Nội vốn đã có nguồn gốc sâu xa từ chính cuộc sống, sinh hoạt và đấu tranh lâu dài của dân tộc. Đây là bản chất, đồng thời là hệ quả tất yếu của một đất nước đã buộc phải giành đến hơn một nửa thời gian lịch sử của mình để đối phó với chiến tranh.
Nghị lực, trung thực, thẳng thắn và giàu nghĩa khí. Người dân ở các vùng của đất nước đưa nghề thủ công về Hà Nội, tạo thành nghề 36 phố phường sầm uất. Nghị lực của người Hà Nội còn được thể hiện ở con đê ngăn lũ sông Hồng đắp suốt chiều dài lịch sử ngàn năm xây dựng đô thành.
Óc thực tế, sáng tạo và nhạy cảm với cái mới. Do hoàn cảnh đô thị hội tụ người bốn phương nên khách quan đòi hỏi người Hà Nội có đầu óc thực tế, thể hiện ở các mặt: Xem xét tính toán trong làm ăn để có lợi nhiều. "Khéo tay hay làm, đất lề Kẻ Chợ" là câu ngạn ngữ quen thuộc ca ngợi tài hoa, sáng tạo của những người thợ thủ công kinh thành. Người Hà Nội xưa và nay có khả năng thích nghi rất nhanh, rất nhạy cảm, khá năng động và không ngại tiếp nhận những cái mới và tìm tòi, cải tiến, sáng tạo thành cái của mình. Điều này thể hiện trong các công trình kiến trúc, văn hóa, trong việc du nhập các luồng tư tưởng tôn giáo, không chỉ tiếp xúc giao lưu với các nền văn hóa phương Bắc mà cả với nền văn hóa phương Tây...
Trọng học thức, chuộng cái đẹp. Chính vì Hà Nội là nơi hội tụ và đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc, nên vùng đất và con người Thăng Long cũng là nơi có tinh thần ham học và quý trọng trí thức. Do sống trong môi trường của đô thành, lại có học vấn khá nên người Hà Nội cảm nhận được vẻ đẹp từ thiên nhiên, cảnh quan môi trường, kiến trúc nghệ thuật, thích thưởng ngoạn những nơi thiên nhiên đẹp, những bức tranh đẹp.
Thanh lịch. Nói đến vẻ đẹp của người Hà Nội là nói đến nếp sống thanh lịch hay: Lịch sự, tinh tế trong cách ứng xử, giao tiếp, xử lý các mối quan hệ một cách mềm mại, uyển chuyển mà hiệu quả cao. Sự thanh lịch của người Hà Nội được thể hiện qua từng lời nói. Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội ở chỗ chuẩn xác, phát âm đúng, mẫu mực cho cả nước. Nét thanh lịch của người Hà Nội được thể hiện ở trang phục. Trong trang phục của cả nam và nữ, của người già và trẻ em… luôn giữ được vẻ trang nhã, hài hòa, giản dị và mỗi người ăn vận đúng với vị thế xã hội và nghề nghiệp của mình. Trang phục áo dài của thanh nữ Hà Nội vẫn là nét đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam. Trong ăn uống của người Hà Nội thể hiện nét thanh lịch ở trình độ thẩm mỹ cao, sự tinh tế trong công việc chế biến thức ăn. Chính chất sành điệu trong ăn uống ấy mà người Hà Nội đã sáng tạo nhiều món ăn nổi tiếng trở thành đặc sản Hà thành như: Phở, bún thang, bún ốc, chả cá, bánh cuốn Thanh trì, chè kho, cốm vòng, bánh tôm Hồ Tây…
 Những đặc trưng về lối sống của người Hà Nội trải qua lịch sử trên cho thấy: có những đặc trưng truyền thống đã trở thành giá trị văn hóa, có đặc trưng truyền thống không có giá trị văn hóa. Nắm được, nhận thức được các đặc trưng truyền thống, để chọn lọc, phát huy và phát triển những nét truyền thống văn hóa bền vững và gạt bỏ những nếp truyền thống xấu là trách nhiệm của mỗi chúng ta hôm nay.

Tổng quan phong tục người Hà Nội



Năm 1010, mới lên ngôi được 5 tháng, Lý Công Uẩn đã ban chiếu hỏi ý kiến triều đình về việc dời đô. Bài chiếu có đoạn nói về vị thế của miền đất sau này sẽ mang tên gọi có ý nghĩa “Rồng lên”: “ ... Thành Đại La ở vào chính giữa trời đất, có cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông tây lại tiện thế nhìn sông tựa núi.
Cơ sở địa lý - lịch sử
Năm 1010, mới lên ngôi được 5 tháng, Lý Công Uẩn đã ban chiếu hỏi ý kiến triều đình về việc dời đô. Bài chiếu có đoạn nói về vị thế của miền đất sau này sẽ mang tên gọi có ý nghĩa “Rồng lên”:
“ ... Thành Đại La ở vào chính giữa trời đất, có cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông tây lại tiện thế nhìn sông tựa núi.
Đất ấy rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa; dân cư không phải cái nạn tối tăm ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giầu thịnh đông vui. Xem khắp nước Việt, đó là đất danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương sum họp và là đô thành bậc nhất đáng mặt làm kinh sư cho muôn đời ”.
Quần thần hoan nghênh, và vào mùa thu năm đó, kinh đô được dời ra Đại La và tên mới được đặt là Thăng Long thành. Kể ra thì vùng danh thắng ấy, từ lâu đã cùng các địa phương khác góp phần làm nên sự thịnh vượng của đất nước, ít ra là từ khi trở thành phụ cận của kinh đô Cổ Loa lịch sử, rồi khi bị Bắc thuộc với các tên gọi Tống Bình, Tống Châu rồi Đại La thành. Tuy nhiên, phải từ 1010 trở đi, Thăng Long mới tỏ rõ là một đô thành lớn nhất nước Việt Nam trong nhiều thời kỳ lịch sử và có một cốt cách văn hoá rất độc đáo, rất riêng. Được vậy là do vùng đất này có những ưu thế:
Đó là một đồng bằng cao ráo, tiện lợi cho việc xây dựng. Dải đất ấy nằm ở giao điểm một mạng lưới sông ngòi để lên rừng xuống biển, sang Bắc vào Nam đều dễ dàng, trở thành một đầu mối giao thông tiện lợi cho việc phát triển kinh tế cũng như giao lưu văn hoá. Đấy là còn chưa kể rằng, vùng đất đó khá mầu mỡ, đủ điều kiện canh tác nuôi sống đông đảo cư dân. Và cuối cùng, Thăng Long, ấy là nơi tụ hội nhân tài, kết tụ tinh hoa khắp bốn phương, để làm thành nơi đô hội phồn thịnh.
Với những thuận lợi trên, cùng với năm tháng, Thăng Long - Hà Nội trải qua bao thăng trầm, để đến nay là một thủ đô phát triển từng được Chính phủ tặng danh hiệu “Thủ đô anh hùng” và được Uỷ ban Giáo dục Khoa học Văn hoá (UNESCO) Liên hiệp quốc tặng danh hiệu “Thành phố vì hoà bình”.
Là trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế hàng ngàn năm, nên Hà Nội nhất định phải trở thành đầu mối giao lưu của các vùng miền trong cả nước. Trong các mối giao lưu này, có giao lưu về văn hoá, về phong tục tập quán, nhờ đó, lối sống “trăm miền” đã hoà thành lối sống Kinh Kỳ - Thăng Long - Hà Nội. Cho nên phong tục tập quán của Hà Nội đa dạng, phong phú. Tuy nhiên trong đó cốt lõi vẫn là kế thừa và phát triển những nhân tố hợp lý, đẹp đẽ của phát triển tập quán của cộng đồng người Việt.
Vì là Kinh Kỳ, Thủ đô, trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế của một nước nên bên cạnh sự giao lưu văn hoá trong phạm vi nội địa còn có sự thâm nhập những giá trị văn hoá từ bên ngoài nhất là các nước đã có những tiếp xúc lịch sử với Việt Nam, Hà Nội (như Trung Quốc, Pháp trước kia hoặc Liên Xô, Hoa Kỳ thời hiện đại).
Cơ sở cư dân
Muốn xét những phong tục tập quán của một vùng thì điều kiện không thể thiếu là phải tìm hiểu những chủ thể đã sáng tạo ra các lề thói sống của vùng đó. Còn chưa tìm hiểu kỹ nguồn gốc, quá trình hình thành và đặc tính của của cộng đồng dân cư, thì còn chưa thể nói đến những cơ sở làm nên nét đặc trưng của tập quán, phong tục của một vùng quê nói chung, và của vùng đất Thăng Long - Hà Nội nói riêng.
Cư dân Thăng Long - Hà Nội thật không thuần nhất. Dải đất này nếu tính từ khi ra khỏi ẩn số của lịch sử thì là từ thế kỷ thứ V. Nhưng hỏi liệu bao nhiêu gia đình có từ ngày đó và tồn tại đến nay ở Hà Nội thì câu hỏi ấy không ai trả lời được. Thậm chí, cũng chưa ai trả lời được câu hỏi có bao nhiêu gia đình đã hiện diện tại Hà Nội từ khi bắt đầu là kinh đô Thăng Long (1010) thì cũng không có cứ liệu.
Kể ra, ở những làng ngoại thành và ven đô cũ (nay đa số đã nằm trong nội thành) mà là thuộc những phường nông nghiệp cổ thì cư dân ít xáo trộn nên có nhiều gia đình còn giữ được gia phả ngược lên đến tận thế kỷ XV, XVI. Như ở làng Trung Tự vốn thuộc phường Đông Tác xưa, nay là phường Trung Tự quận Đống Đa có họ Nguyễn (của những học giả Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Kha...). Gia phả mà dòng tộc này còn giữ được cho biết: họ vốn gốc tự Gia Miêu, Thanh Hoá, ra cư trú tại Trung Tự từ thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) và đến nay (2004) trẻ nhất là thế hệ thứ 18. Hay phả hệ của họ Phạm ở Đông Ngạc (Vẽ), huyện Từ Liêm - một gia tộc lớn với những chi Phạm Gia, Phạm Quang, có nhiều danh nhân, bác học - cũng ghi là gốc ở làng Đông Biện, Thanh Hoá, ra cư trú tại Vẽ từ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, nay trẻ nhất là thế hệ thứ 18. Còn họ Nguyễn ở làng Vân Điềm, huyện Đông Anh - dòng họ đã sản sinh ra các bậc đại nho như Nguyễn Án, Nguyễn Tư Giản và nhà viết tiểu thuyết lịch sử tài danh Nguyễn Triệu Luật - thì lại coi cụ Nguyễn Thực (1553 - 1637) là tổ thứ 1 và nay trẻ nhất là đời thứ 17 (gia phả còn cho biết đây chính là dòng dõi nhà Lý bị nhà Trần đổi ra họ Nguyễn; có điều là thời gian quá xa nên không rõ tên họ các cụ tổ họ Lý).
Đó là trường hợp những nơi ít biến động dân cư. Còn các khu vực vốn là những phường thương nghiệp và thủ công ở ven cửa Sông Hồng và ven Sông Tô (nay là khu vực các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng) thì dân cư xáo trộn nhiều. Người buôn bán và người làm hàng thường ít khi trụ nhiều đời ở một địa điểm. Là bởi hai lý do: một là phá sản, phải bật đi cầu thực ở tha phương; hai là, trong trường hợp ngược lại, do khá giả lên mà có nhu cầu tìm những nơi ở khác, sang trọng rộng rãi hơn, thuận tiện hơn cho kinh doanh, thậm chí chuyển hẳn sang tỉnh khác để làm giầu. Trong thực tế, nào có thiếu gì những trường hợp đúng như điều ghi nhận của câu ngạn ngữ cũ: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời!”. Việc hưng thịnh hay sa sút trong kinh doanh đâu có hiếm. Đấy là còn chưa kể đến hiện tượng nhiều con em các gia đình ở khu vực này thi đỗ, đi làm quan ở các tỉnh xa rồi cư ngụ luôn tại đấy, đôi khi kéo theo cả họ hàng đến ở cùng. Và luồng nhập cư vào Thăng Long cũng lại luôn diễn ra rất thường xuyên.
Thời nào cũng vậy, người “tứ chiếng” cũng vẫn đổ về Thăng Long - Hà Nội làm ăn. Có lần, vào thời Lê Thánh Tông, thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng Long đông quá khiến triều đình toan đuổi tất cả về nguyên quán. Chỉ đến khi biết rằng chính họ là nguồn cung nạp thuế quan trọng và làm ra nhiều sản phẩm cần thiết thì nhà vua mới xét lại mà đuổi riêng bọn du thủ du thực vô nghề nghiệp mà thôi. Hay như thế kỷ XVIII, trong Thượng Kinh phong vật chí cũng phải ghi: “Khách bốn phương, những người thích nơi Thượng kinh đua nhau đến ở quanh cả kinh đô, không lúc nào ngớt, đều cố nhanh chân rảo bước mà đến như tranh đến kinh đô nước Yên xưa”.
Có thể nêu một ví dụ: ở ngõ Phất Lộc nay thuộc quận Hoàn Kiếm còn có một ngôi nhà thờ họ Bùi Huy là một họ lớn, nổi lên ở Thăng Long từ đầu thế kỷ XVIII và cho tới nay họ vẫn có nhiều thành viên thành đạt cả trong và ngoài nước. Họ Bùi ấy vốn không phải gốc ở ngõ này. Và cái tên Phất Lộc cũng không phải tên gốc của ngõ đó. Đây vốn là ngõ Phúc Lộc thuộc huyện Thọ Xương.
Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, có một dòng họ Bùi quê quán làng Phất Lộc thuộc huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình lên Thăng Long ngụ ở cái ngõ lúc bấy giờ còn gọi là Phúc Lộc. Sau đó, con cháu phát đạt, người làm quan, người buôn bán giầu có, nên mua được phần lớn đất thổ cư trong ngõ. Sau đó, người làng Phất Lộc Thái Bình cũng theo gương ấy kéo ra ngụ cư tại đây, do vậy hầu hết đất ngõ thuộc về người Phất Lộc và đến một lúc nào đó, con ngõ được gọi là Phất Lộc. Nếu tính từ ông cụ tổ họ Bùi lên Thăng Long đến nay thì người trẻ nhất của dòng họ Bùi trong ngõ là đời thứ 11 (gia phả còn ghi được 8 đời trước đó ở Phất Lộc, Thái Bình).
Còn đây là một ví dụ khác: họ Đỗ Đức vốn ở phường Thịnh Quang (nay vẫn mang tên này, thuộc quận Đống Đa), sau có một chi di vào làng Hạ Đình, thuộc xã Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân. Theo gia phả ghi lại thì cụ tổ thứ nhất của họ này có thể là ở Lạc Đạo (Hưng Yên) di sang Thịnh Quang từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Họ này từng có ông Đỗ Chân Thiết, một chiến sĩ của phong trào Đông du Phan Bội Châu, bị Pháp bắt xử tử, có bà Đỗ Thị Tâm đảng viên Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học, bị bắt và đã tự sát trong nhà tù Hoả Lò để phản đối chế độ nhà tù thực dân. Gần đây, có nhà văn Đỗ Đức Thu nổi tiếng thời 1938 - 1945.
Nhưng trong thực tế lịch sử, vẫn còn một nguồn cư dân khác gia nhập vào cộng đồng Thăng Long - Hà Nội. Đó là những người nước ngoài đến lập nghiệp ở nơi đây. Phần lớn trong số họ là người Hoa. Không kể những người Hoa mà tổ tiên sang Việt Nam, cư ngụ ở Đại La từ thời Bắc thuộc mà chỉ kể những người Hoa được phép sinh sống ở Thăng Long trải qua các triều Lý, Trần, Lê, thì sử cũ cũng đã từng ghi: năm 1274, có 30 thuyền người Hoa xin nhập tịch nước ta, được phép cư ngụ ở Thăng Long. Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) cũng chép là, trong số 36 phường họp thành Kinh đô Thăng Long, có hẳn một phường người Hoa được cư trú. Đó là phường Đường Nhân. (Thời cổ có lúc cả thế giới gọi người Hoa là người nước Đường). Phường đó tương ứng khu vực phố Hàng Ngang và lân cận.
Khoảng thế kỷ XVI, người Hoa chỉ được phép cư ngụ ở Phố Hiến (Hưng Yên). Sang thế kỷ XVII họ được lên Thăng Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin chính quyền thành Thăng Long cho họ đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông Hồng từ bến Hàng Mắm đến tận bến Tây Long (tức chỗ Nhà Hát Lớn ngày nay). Chả là thuở đó sông Hồng chảy sát chân đê, tức chân đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ. Cho mãi đến năm 1945, ở Hà Nội, vẫn còn hàng chục cửa hàng của các chi phái họ Phan từ Quảng Đông sang mở cửa hiệu ở Hàng Ngang khoảng trăm năm trước, đã Việt hoá hoàn toàn. Đó là các hiệu Phan Hưng Thành, Phan Hoà Thành, Phan Đức Thành, Phan Thái Thành... và những thế hệ người Hoa ở phố Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), Hàng Buồm, Hàng Bồ… Tuy nhiên, suốt quá trình nhập cư, có rất nhiều gia đình người Hoa đã Việt hoá, nhập tịch làng Việt, trang phục như người Việt, đàn bà cũng vấn khăn, nhuộm răng, ăn trầu.
Ngoài người Hoa phải kể đến người Chăm, những lớp người được đưa từ phương Nam ra trong nhiều trường hợp khác nhau. Trong đó, trừ những người bị bắt đưa ra sau các cuộc chiến tranh thì số người tự nguyện đến ViệtNam, đến Thăng Long - Hà Nội cũng là không ít. Sử cũ còn ghi: năm 1039, một hoàng tử con vua Chăm đã cùng 5 gia tộc vượt biển ra Thăng Long quy phục nhà Lý. Năm 1390, lại có hai hoàng tử làm như vậy đối với nhà Trần. Còn quy phục nhà Lê thì có một quý tộc Chăm, tên là Phan Mỗ, năm 1448, đem theo bà con họ hàng làng xóm tất cả 340 người. Các làng ở Hà Nội, nếu trong tên có chữ Sở thì phần lớn là các sở đồn điền dành cho người Chăm như Vĩnh Tuy Sở, Thịnh Quang Sở, Xuân Tảo Sở, Quán La Sở... Đặc biệt có làng Phú Gia (quận Tây Hồ) có hai họ Bố và Ông là gốc Chăm (mãi tới đời Tự Đức khoảng 1848-1950 một viên quan phủ hoặc huyện hách dịch không muốn dân xưng bố và ông với quan nên bắt đổi Bố ra Hi và Ông ra Công. Nay hai họ này vẫn là cư dân chính của làng Phú Gia. Sách Hoàng Lê nhất thống chí có kể chuyện ông Phương Đình Pháp, một vị quan can đảm thời vua Lê Cảnh Hưng, đã dám ngăn không cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đeo gươm đi lên chính điện gặp vua. ông Pháp là người Quán La Sở và gốc Chăm. Còn trước đó thì có bà Phan Ngọc Đô, một phi tần được vua Lê Thánh Tông (?) đưa ra Thăng Long, cho ở tại trang Thiên Niên (nay là Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ). Bà đã dạy cho dân vùng này dệt một mặt hàng lụa rất mỏng, mịn, nhuộm thâm, bóng láng, mặc mát, gọi là dệt lĩnh.
Luồng nhập cư đã liên tục và mạnh mẽ thì cư dân tất phải xáo trộn. Các thế hệ “tứ chiếng” kéo về Thăng Long sinh cơ lập nghiệp đã lập ra các phố phường trải qua chiều dài của hàng chục thế kỷ. Những lớp người ấy, lẽ tất nhiên phải đem đến Thăng Long - Hà Nội những lề thói của địa phương mình. Song các lề thói ấy, theo thời gian, đã được chung đúc lại, chắt lọc ra, hoà với người Thăng Long bản địa để cùng tạo nên cái phong tục riêng của chốn Kinh Kỳ, cái vẫn được tục ngữ gọi là “đất lề quê thói”, nhưng đã là lề là thói mang những nét thanh lịch riêng có ở chốn Thượng kinh.
Nói cách khác, các thế hệ nhập cư Thăng Long đã tự điều chỉnh, tự hoàn chỉnh nhân cách, nâng cao lên cho hợp với điều kiện và môi trường kinh đô. Sự tồn tại của họ chính là kết quả của quá trình hoà đồng, dung hội lâu dài. Cho nên, dù không thuần khiết như làng quê, song ở Thăng Long - Hà Nội đã thực sự hình thành một cộng đồng mới với những quan hệ mới, và theo đó, hình thành những lề thói riêng của dải đất kinh kỳ này. Cứ thế, trải ngàn năm, miền đất đẹp đẽ, linh thiêng Thăng Long - Hà Nội đã thành một vùng văn hoá với những phong tục tập quán nảy sinh từ sự hoà hợp các cư dân của nhiều miền tụ hội về.

VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG VÀ SỰ ĐOÀN KẾT CỦA ASEAN TRONG NĂM 2013

Năm 2012 là một năm đầy khó khăn và thách thữc với ASEAN về vấn đề Biển Đông; sự đoàn kết của ASEAN trong vấn đề này đã bị Bắc Kinh thao túng.
Hồ sơ Biển Đông sẽ là thử thách lớn về sự đoàn kết của ASEAN trong năm 2013. Bất luận thế nào, chúng ta vẫn tin rằng vấn đề Biển Đông sẽ tiếp tục trở thành đề tài nóng, được thảo luận rộng rãi trong các hội nghị của ASEAN, ARF, EAS và hội nghị giữa ASEAN với các đối tác trong năm 2013.
Với tư cách Chủ tịch ASEAN trong năm 2012, Cămpuchia bị Bắc Kinh “mua chuộc” đã tìm cách gạt bỏ vấn đề Biển Đông ra khỏi chương trình nghị sự và các văn kiện của các hội nghị liên quan được tổ chức tại Cămpuchia, làm rạn nứt sự đoàn kết trong ASEAN. Tuy nhiên, do vấn đề Biển Đông đã trở thành một vấn đề mang tầm quốc tế, liên quan đến lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực nên những mưu đồ của Bắc Kinh không trở thành hiện thực. Vấn đề Biển Đông tiếp tục được thảo luận rộng rãi và được đưa vào văn kiện của các hội nghị; với cách làm thô thiển đó, Trung Quốc đã bị chỉ trích mạnh mẽ và bị “mất thể diện” trước các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế; Cămpuchia không hoàn thành vai trò của Chủ tịch ASEAN và bị cộng đồng quốc tế lên án là “tay sai” của Bắc Kinh.
Tháng 7/2012, Cămpuchia đã tìm mọi cách gạt bỏ nội dung Biển Đông ra khỏi Tuyên bố của Hội nghị Ngoại trưởng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AMM 45) tại Phnom Penh dẫn đến việc lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm tồn tại Hội nghị AMM không ra được một tuyên bố chung. Các nước hết sức bất bình với “sự phá hoại” của Cămpuchia. Cách làm đó của Cămpuchia lại được lặp lại trong Hội nghị cấp cao ASEAN 21 và các hội nghị cấp cao khác tại Phnom Penh hồi tháng 11/2012. Thủ tướng Campuchia Hun Sen cố tình tuyên bố “ASEAN nhất trí không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông” và đưa nội dung này vào dự thảo Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21. Tuy nhiên, Philippin, Việt Nam và nhiều nước khác đã phản đối mạnh mẽ việc làm này của Cămpuchia vì nhiều nước ASEAN không đồng tình với nội dung này. Cuối cùng, bản thân ông Hun Sen với tư cách Thủ tướng nước chủ nhà phải thừa nhận ASEAN tiếp tục thất bại trong việc đạt được đồng thuận về vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông với Trung Quốc.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Jakarta, Indonesia năm 2011, Lãnh đạo các nước ASEAN nhất trí xây dựng Bộ quy tắc ứng xử mới về Biển Đông (COC) vào năm 2012. Khi đó, với tư cách nước Chủ tịch ASEAN, Tổng thống Indonesia Yudhoyono nhấn mạnh “hầu hết các nhà lãnh đạo Đông Nam Á đều nghĩ rằng đã đến lúc phải có một văn kiện ràng buộc các quốc gia tuyên bố chủ quyền tại nhiều vùng trong biển Đông. Được như vậy thì các vụ tranh chấp mới có thể được “giải quyết một cách thích hợp và tránh tạo ra xung đột ngoài ý muốn”; đồng thời cho rằng 10 năm đã trôi qua từ khi các bên đạt được Tuyên bố ứng xử (DOC), bây giờ phải nhanh chóng đi đến một bộ luật ứng xử (COC). Thế nhưng trong năm 2012, điều này mới chỉ thực hiện được một phần với việc Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN thông qua nội dung những thành tố chính của COC. Trung Quốc một mực từ chối cùng các nước ASEAN thảo luận về COC.
Bước vào năm 2013, Brunei đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN từ Cămpuchia với đầy rẫy những khó khăn thử thách về việc củng cố đoàn kết nhất trí ASEAN trong hồ sơ Biển Đông. Brunei là một nước nhỏ, rất ngại đối đầu với Trung Quốc nên mặc dù là một bên liên quan đến tranh chấp ở Trường Sa nhưng lâu nay Brunei rất thận trọng trong phát biểu công khai về vấn đề Biển Đông. Đây sẽ là một khó khăn cho việc thúc đẩy vấn đề Biển Đông trong năm 2013. Nhưng có thể tin tưởng rằng Brunei sẽ không thể “bán rẻ” mình như Cămpuchia đã làm trong năm 2012 và vấn đề Biển Đông sẽ tiếp tục là chủ đề nóng tại các hội nghị trong khuôn khổ ASEAN năm 2013 vì những yếu tố sau:
Một là, những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông đã trở thành mối lo ngại chung của cộng đồng quốc tế; hòa bình ổn định và tự do, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực. Vấn đề Biển Đông đã trở thành một vấn đề quốc tế là không thể đảo ngược được.
Hai là, việc Trung Quốc từ chối đàm phán với các nước ASEAN về COC cho thấy rõ Trung Quốc hoàn toàn không có thiện chí cùng các nước liên quan giải quyết thỏa đáng vấn đề Biển Đông. Ban Lãnh đạo mới ở Bắc Kinh đang thi hành một chính sách cứng rắn trên các vấn đề trên biển với các nước láng giềng nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc biển” mà Đại hội 18 Đảng Cộng sản đã đề ra. Cộng đồng quốc tể cho rằng nếu im lặng Trung Quốc sẽ lấn tới, do vậy cần có tiếng nói chung trên vấn đề Biển Đông để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.
Ba là, Brunei có lợi ích thiết thân trong vấn đề Biển Đông, nên không thể hy sinh lợi ích chung của các nước ASEAN vì sức ép của Trung Quốc. Dù là nước nhỏ, nhưng bên cạnh Brunei còn các nước khu vực, nhiều cường quốc khác và cả cộng đồng quốc tế. Brunei đã xác định là chủ tịch ASEAN năm 2013, Brunei sẽ tham vấn chặt chẽ với các cường quốc lớn và các đối tác đối thoại trong suốt nhiệm kỳ của mình. Điều quan trọng nhất là Bộ Ngoại giao và Thương mại Brunei đã tuyên bố trong cuộc họp báo ngày 02/01/2012 tại thủ đô Bandar Seri Begawan rằng “cùng với an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội, vấn đề Biển Đông vẫn là trọng tâm của ASEAN trong 2013” và Bruinei muốn xây dựng bộ quy tắc ứng xử (COC) giữa các bên tranh chấp tại Biển Đông, chú trọng giải quyết tranh chấp bằng đối thoại trên tinh thần đảm bảo an ninh và ổn định khu vực.
Một nhân tổ mới có tác động tích cực đến hồ sơ Biển Đông trong ASEAN là việc ông Lê Lương Minh, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam trở thành Tổng thư ký mới của ASEAN. Ông Lê Lương Minh sẽ phải cố gắng để tạo sự đồng thuận chung trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông vì đây là lợi ích của quốc gia ông. Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã ngay lập tức hoan nghênh Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lương Minh trở thành Tổng thư ký mới của ASEAN; đồng thời bày tỏ sự tin tưởng, vai trò của ông Lê Lương Minh sẽ góp phần thúc đẩy sự thống nhất trong vấn đề nóng của khu vực trong năm 2013. Phát biểu về vấn đề Biển Đông khi nhận chức Tổng Thư ký ASEAN, ông Minh nhấn mạnh sẽ tập trung thúc đẩy thực hiện nghiêm túc DOC, sớm xây dựng COC và tăng cường trao đổi với các bên liên quan về vấn đề Biển Đông.
Năm 2013 là năm bản lề thực hiện lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Sau một năm sóng gió, các nước ASEAN đều nhận thấy rằng cần phải “xốc lại” sự đoàn kết nhất trí trong ASEAN để thực hiện mục tiêu chung này, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN đối với các vấn đề khu vực nói chung và hồ sơ Biển Đông nói riêng. Theo lịch trình, hai kỳ Hội nghị Cấp cao ASEAN 2013 lần thứ nhất sẽ diễn ra ngày 24 và 25 tháng 4/2013; lần thứ hai ngày 9 và 10 tháng 10/2013 tại thủ đô Bandar Seri Beganwan, Brunei. Các nhà phân tích chính trị đang chăm chú quan sát những diễn biến mới trong vấn đề Biển Đông tại các hội nghị trong khuôn khổ ASEAN năm 2012.
ASEAN cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo vì Trung Quốc không từ bỏ âm mưu phân hóa chia rẽ sự đoàn kết của ASEAN, nhất là trên vấn đề Biển Đông. Họ sẽ không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để thực hiện mục tiêu đó. Họ sẽ tiếp tục tìm mọi cách để ngăn cản “khu vực hóa”, “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc không phải muốn làm gì cũng được, họ cũng cần ASEAN để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và Trung Quốc không thể củng cố tang trưởng kinh tế trong bầu không khí thù nghịch với chính Trung Quốc. Các nước ASEAN cần nhận thức rõ vấn đề này để không “run sợ” trước sức ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Việc các nước ASEAN có sự đồng thuận chung sẽ tạo them sức mạnh thúc ép Trung Quốc đi vào đàm phán COC với các nước ASEAN để tìm giải pháp cho vấn đề Biển Đông ./.

BƯỚC NGOẶT MỚI CHO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG

Chiều 22/01/2013, Bộ Ngoại giao Philippin đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Philippin Mã Khắc Thanh để trao Công hàm chính thức khởi kiện Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông.
Cùng với Công hàm Philippin đã chuyển cho Đại sứ Trung Quốc thông báo trọng tài và Nội dung đơn kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 theo Điều 287 Công ước 1982.
Trong đơn kiện, Philippin nhấn mạnh yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của Philippin ở “Biển Tây Philippin” và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hoạt động bất hợp pháp vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippin theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Chiều cùng ngày, Bộ trưởng Ngoại giao Philippin Del Rosario cũng đã ra Tuyên bố chính thức thông báo việc Philippin đã chính thức khởi kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Phụ lục VII của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Trong Tuyên bố Ngoại trưởng Del Rosario nêu rõ Philippin khởi kiện Trung Quốc là nhằm thực thi chính sách của Tổng thống Aquino tìm kiếm một giải pháp hòa bình và lâu dài dựa trên các quy định của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Philippin đã sử dụng hết các khả năng chính trị và ngoại giao của mình để giải quyết tranh chấp trên biển với Trung Quốc trước khi quyết định sử dụng đến cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước. Ông Del Rosario nói “Từ năm 1995, Philippines đã nhiều lần trao đổi quan điểm với Trung Quốc nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp. Cho đến tận hôm nay, vẫn chưa có bóng dáng của một giải pháp nào”.
Năm 1995, Trung Quốc đã đánh chiếm bãi Vành Khăn (Mischief), Philippin đã có nhiều nỗ lực ngoại giao đề nghị Trung Quốc rút khỏi bãi Vành khăn (Mischief) của Philippin. Năm 1995, ASEAN đã ra Tuyên bố lên án hành động sai trái của Trung Quốc chiếm bãi Vành khăn (Mischief), nhưng Trung Quốc đều phớt lờ ý kiến của Cộng đồng quốc tế và Philippin tiếp tục chiếm đóng trái phép ở bãi Vành khăn (Mischief) cho đến nay. Tháng 4/2012, Trung Quốc sử dụng tàu cá dưới sự yểm trợ của tàu hải giám và ngư chính gây căng thẳng kéo dài với Philippin ở khu vực bãi cạn Scarborough. Philippin tiếp tục kiên trì với nhiều nỗ lực ngoại giao mong muốn giải quyết vấn đề với Trung Quốc thông qua đàm phán. Dưới sự dàn xếp của Mỹ cả Philippin và Trung Quốc đều cam kết rút hết tàu khỏi khu vực bãi cạn Scarborough. Để tỏ thiện chí, từ tháng 6/2012 Philippin đã rút hết tàu ra khỏi khu vực. Tuy nhiên, 7 tháng trôi qua, Trung Quốc vẫn không chịu rút hết tàu của họ ra khỏi khu vực này. Thậm chí Trung Quốc còn có nhiều bước leo thang mới, đưa bãi cạn Scarborough vào cái gọi là “thành phố Tam Sa”; đồng thời liên tiếp khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với khu vực Scarborough tại các diễn đàn quốc tế. Chính cách hành xử của Trung Quốc đã dẫn đến cuộc đối đầu giữa hai nước tại bãi cạn Scarborough. Đến nay, Trung Quốc tỏ ra hoan hỷ vì đã “thành công” trong việc “nuốt trọn” bãi cạn Scarborough của Philippin.
Từ tháng 5/2012, Philippin đã chính thức đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề bãi cạn Scarborough ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế, song Trung Quốc từ chối. Có lẽ họ đã nhận ra rằng, các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông đều không có cơ sở pháp lý. Như Ngoại trưởng Philippin đã khẳng định trong Tuyên bố đơn phương khởi kiện Trung Quốc, Philippin không còn sự lựa chọn nào khác. Đây được coi là sự lựa chọn khôn ngoan mang tính chiến lược của Philippin trong giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Để ngăn cản việc giải quyết các tranh chấp trên biển với các nước láng giềng bằng cơ chế tài phán quốc tế, năm 2006 của Trung Quốc đã tuyên bố loại trừ việc áp dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính bắt buộc và ràng buộc đối với các vấn đề liên quan đến chủ quyền và phân định biển của các cơ quan tài phán quốc tế theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tuy nhiên, để vượt qua bảo lưu này của Trung Quốc, trong Thông báo khởi kiện Trung Quốc ra Trọng tài theo Phụ lục VII, Philippin đã nói rõ nước này không khởi kiện về vấn đề chủ quyền đối với các cấu trúc địa chất ở khu vực “Biển Tây Philippin” cũng như về vấn đề phân định biển. Với cách tiếp cận này, nhiều khả năng đơn kiện của Philippin sẽ được chấp thuận phán quyết. Đây sẽ là vụ kiện thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước láng giềng liên quan đến tranh chấp “đường 9 đoạn” vì lần đầu tiên Trung Quốc bị một quốc gia láng giềng khởi kiện trong tranh chấp Biển Đông.
Đây là một động thái mang tính bước ngoặt của Philippin trong tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông. Không biết rồi Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao trước việc Philippin khởi kiện. Sự việc Philippin đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế đang đặt Trung Quốc vào một tình huống bất lợi và tạo cho Philippin thế chủ động trong việc giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Philippin đã chính thức chỉ định Thẩm phán Rudiger Wolfrum (người Đức) của Tòa án quốc tế về Luật Biển làm Trọng tài viên cho vụ kiện này. Theo thủ tục xử lý tranh chấp tại Trọng tài theo Phụ lục VII, Trung Quốc cũng sẽ phải lựa chọn và cử thẩm phán của mình, nếu Trung Quốc từ chối không cử thì Tòa án Luật biển sẽ chỉ định Thẩm phán cho Trung Quốc như vậy sẽ bất lợi hơn cho Trung Quốc. Dù muốn hay không Trung Quốc cũng phải đưa ra các lập luận của mình với Tòa. Theo kinh nghiệm giải quyết các vụ tranh chấp trước kia, quá trình pháp lý giải quyết vụ kiện dự kiến kéo dài 3 đến 4 năm.
Theo báo Philippines Star, Đại sứ quán Trung Quốc tại Philippin đã đưa ra phản ứng ban đầu khá thận trọng, nhấn mạnh Trung Quốc muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế.
Mục tiêu khởi kiện của Philippin là Tòa trọng tài theo Phụ lục 7 đưa ra phán quyết “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là phi lý. Yêu sách “đường 9 đoạn” còn vi phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, Malaysia, Brunei và Indonesia, đồng thời đe dọa nghiêm trọng đến an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông. Cả cộng đồng quốc tế từ chính giới đến các học giả, luật sư, nhà nghiên cứu… đều phê phán yêu sách phi lý này của Trung Quốc, do vậy quyết định khởi kiện “đường 9 đoạn” của Philippin chắc chắn sẽ nhận đượng sự hoan nghênh và đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông ngày càng diễn biến hết sức phức tạp. Các nhà phân tích đã nhiều lần kêu gọi các bên liên quan đưa tranh chấp Biển Đông ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế vì quyết định của Tòa án là công bằng nhất cho mỗi quốc gia.
Đưa Trung Quốc ra Tòa án quốc tế là một quyết định khó khăn của Philippin - một nước nhỏ với tiềm lực kinh tế yếu hơn nhiều so với Trung Quốc, nhưng đây là một sự lựa chọn đúng đắn thể hiện sự quyết tâm đi đến cùng của Philippin. Việc khởi kiện của Philippin mở ra một cục diện mới cho việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông theo hướng sử dụng các cơ chế tài phán quốc tế như đã được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Trung Quốc là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 nên hy vọng Trung Quốc sẽ có thái độ tích cực đối với việc giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông tại cơ quan tài phán quốc tế.
Các chuyên gia quốc tế đang chăm chú theo dõi phản ứng của Trung Quốc và quá trình xem xét vụ kiện của Tòa trọng tài theo Phụ lục 7 vì kết quả vụ kiện sẽ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến việc tìm kiếm một giải pháp lâu dài, hòa bình, công bằng ở Biển Đông mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hòa bình ổn định, tự do và an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông. Nhiều nhà phân tích cho rằng đây sẽ là một vụ kiện lý thú vì lần đầu tiên một nước lớn cộng sản Trung Quốc bị khởi kiện về các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Trong thời gian qua, các hoạt động gây hấn của Trung Quốc tập trung chĩa mũi nhọn vào Việt Nam và Philippin. Philippin đã có sự lựa chọn sáng suốt khi sử dụng Trọng tài theo Phụ lục 7 để khởi kiện Trung Quốc. Việt Nam cần ủng hộ mạnh mẽ việc làm của Philippin, đồng thời cần có phản ứng tương tự trong việc khởi kiện Trung Quốc, đưa các tranh chấp ở Biển Đông ra giải quyết tại các cơ quan tài phán quốc tế, trước mắt là khởi kiện việc Trung Quốc mời thầu 9 lô dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam tháng 6/2012. Đây là sự lựa chọn tối ưu cho Việt Nam trong bối cảnh Trung Quốc đang đẩy mạnh hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”, gây sức ép mạnh đòi “cùng khai thác” trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Việc Philippin đi đầu trong khởi kiện Trung Quốc là dịp hết sức thuận lợi để Việt Nam cùng tham gia khởi kiện Trung Quốc bác bỏ yêu sách phi lý “đường lưỡi bò”, bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình ở Biển Đông. Hy vọng Chính phủ Hà Nội nhanh chóng ra quyết định đưa các tranh chấp ở Biển Đông ra cơ quan tài phán quốc tế để tiếp thêm sức mạnh cho Philippin trong cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông./.

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

Chủ tiệm vàng vùng biên bị sát hại dã man

Vào khoảng 4 giờ sáng 2/2, tại tiệm vàng Tô Châu, khu Phố Suối, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, xảy ra án mạng nghiêm trọng.

Chủ tiệm vàng là ông Trần Văn Bình (44 tuổi) bị đánh vào đầu, tử vong tại chỗ, bà Phùng Thị Hường (40 tuổi), bị thương, đang cấp cứu tại bệnh viện. Hung thủ trốn thoát qua tum trên sân thượng nhà ông Bình.
Tiệm vàng Tô Châu, nơi xảy ra án mạng nghiêm trọng. ảnh: Duy Chiến.
Tiệm vàng Tô Châu, nơi xảy ra án mạng nghiêm trọng. ảnh: Duy Chiến.
Theo nhiều nhân chứng, có thể hung thủ đột nhập vào tiệm vàng qua tum trên sân thượng nhà ông Bình. Công an đã thu được 1 đoạn dây thép dài, có hai đầu quặt ngang.
Trong nhà ông Bình có hai vũng máu lớn ở nền nhà tầng 1 và trước cửa phòng ngủ tầng 2. Theo người nhà nạn nhân, ông Bình tử vong tại chiếu nghỉ cầu thang dẫn lên tầng 3. Có thể ông đuổi theo hung thủ và bị đánh vào đầu bằng búa từ trên cao; còn bà Hường bị thương nặng, chạy xuống tầng 1 tri hô, sau đó gục ngã.
Hung thủ có thể dùng đoạn sắt này để chui qua tum, vào nhà ông Bình. ảnh: Duy Chiến.
Hung thủ có thể dùng đoạn sắt này để chui qua tum, vào nhà ông Bình. ảnh: Duy Chiến.
Người hàng xóm cho biết, tầm 4 giờ, nghe thấy có tiếng động, va chạm lớn tiếng; nhưng cửa chính vẫn đóng kín mít. Thấy chuyện chẳng lành, liền gọi báo công an. Chừng 15 phút sau, lực lượng chức năng có mặt, tiến hành phá cửa vào trong nhà. Trước đó, hung thủ đã đập cửa tum nhà ông Bình, tẩu thoát.
Phong toả hiện trường, phục vụ công tác điều tra, phá án. ảnh: Duy Chiến.
Phong toả hiện trường, phục vụ công tác điều tra, phá án. ảnh: Duy Chiến.
Công an tỉnh Lạng Sơn huy động lực lượng, sử dụng chó nghiệp vụ, truy lùng thủ phạm, phong toả hiện trường, khám nghiệm hiện trường, tử thi để điều tra. Vợ chồng ông Bình gặp nạn, các con vắng nhà, nên không rõ tài sản gia đình có bị mất hay không.
Chiều cùng ngày, gia đình đã làm lễ tang cho người xấu số. Tiền Phong tiếp tục thông tin diễn biến mới của vụ án.

Phú Yên: Cháy sân vận động, hàng chục hộ dân hốt hoảng

  Ngọn lửa phát cháy từ những ống nhựa dẫn nước gặp gió thổi mạnh nên nhanh chóng bùng cháy lớn khiến hàng chục hộ dân sống gần khu vực lân cận một phen hoảng hồn.

Vụ hỏa hoạn hi hữu xảy ra vào khoảng 16 giờ 30 phút chiều ngày 2/2,tại cung D, khu vực phía Nam khán đài A của sân vận động thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên).
Thông tin ban đầu, đám cháy xuất phát từ đống ống nhựa dẫn nước của một đơn vị đang thi công dự án cải tạo phát triển hệ thống cấp thoát nước thành phố Tuy Hòa gửi tạm tại đây.
Đám cháy bốc lớn (Ảnh: Báo Người lao động)
Đám cháy bốc lớn (Ảnh: Báo Người lao động)
Được biết, đây là dự án do Công ty TNHH một thành viên Cấp thoát nước Phú Yên  làm chủ đầu tư.     
Ngay sau khi người nhận được tin báo, lực lượng PCCC Công an tỉnh Phú Yên khẩn trương điều động 4 xe chữa cháy cùng hơn 40 cán bộ chiến sĩ, phối hợp với lực lượng tại chỗ nhanh chóng dập tắt đám cháy.
Tại hiện trường đám cháy, hàng trăm ống nhựa đã bị cháy chảy nhựa, hai mảng tường lớn của khán đài sân vận động bị cháy nổ, hư hỏng nặng. Đám cháy cũng làm hàng chục hộ dân sống quanh khu vực này một phen hú vía.
Hiện nguyên nhân vụ cháy tiếp tục được cơ quan chức năng điều tra làm rõ.
Lực lượng PCCC tham gia dập lửa
Lực lượng PCCC tham gia dập lửa
Những ống nhựa dẫn nước bị cháy hư hỏng
Những ống nhựa dẫn nước bị cháy hư hỏng
Những ống nhựa dẫn nước bị cháy hư hỏng

Trung Quốc sắp kiểm soát hải cảng chiến lược của Pakistan

Với việc được giao quyền điều hành khu cảng nước sâu chiến lược ở biển Ả rập, gần eo biển Hormuz, đây không chỉ là lợi ích về kinh tế mà có khả năng là cả ưu thế quân sự cho Bắc Kinh.

Theo thông báo của người phát ngôn Bộ vận tải và cảng biển Pakistan, nội các nước này đã phê chuẩn đề xuất để một công ty thuộc sở hữu của chính phủ Trung Quốc, có tên China Overseas Port Holdings Limited, mua lại quyền kiểm soát cảng Gwadar từ một công ty Singapore. Trước đó công ty này đã thắng thầu điều hành cảng trên trong thời hạn 40 năm tính từ năm 2007.
Khu cảng Gwadar được xây dựng từ lâu nhưng thiếu hạ tầng kết nối
Khu cảng Gwadar được xây dựng từ lâu nhưng thiếu hạ tầng kết nối
Theo hãng tin AP, Trung Quốc đã tài trợ gần như toàn bộ chi phí xây dựng khu cảng này, ước tính khoảng 200 triệu USD. Cảng được xây trên một làng chài cũ ở làng Gwadar, tỉnh Baluchistan của Pakistan. Đây là một dự án thất bại của chính quyền địa phương sau khi ra mắt năm 2007 bởi Pakistan không thể hoàn thành mạng lưới đường nối cảng này với hệ thống giao thông quốc gia.
Vẫn theo AP, việc Trung Quốc kiểm soát được khu cảng sẽ giúp họ đặt chân vào một trong những khu vực có tính chất chiến lược nhất thế giới và có thể khiến Washington lo lắng. Bởi Gwadar nằm trên biển Ả rập và án ngữ vị trí trọng yếu trên tuyến đường từ Nam Á sang Trung Á và Trung Đông. Nó cũng nằm gần eo biển Hormuz, nơi 20% lượng dầu của thế giới được vận chuyển qua mỗi năm.
Trung Quốc quan tâm đến cảng này bởi mối lo ngại về an ninh năng lượng nhằm thỏa mãn nhu cầu của một nền kinh tế đang phát triển mạnh. Bắc Kinh muốn có một nơi đặt nền móng cho tuyến đường ống dẫn dầu và khí đốt từ vùng Vịnh. Họ cũng tin rằng việc giúp Pakistan phát triển sẽ giúp tăng cường hoạt động kinh tế tại vùng lãnh thổ Tân Cương xa xôi, ráp Pakistan.
Một số chuyên gia xem Gwadar như vùng cực Tây trong “chuỗi ngọc trai”, một hệ thống cảng từ Trung Quốc tới vùng Vịnh, giúp việc mở rộng ảnh hưởng của hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương dễ dàng hơn. Điều này đã khiến cả Mỹ và Ấn Độ lo ngại. Pakistan hiện xem Trung Quốc như một trong những đồng minh quan trọng nhất và là đối trọng với Mỹ. Washington vẫn tài trợ cho Islamabad hàng tỷ USD nhưng thường vẫn bị xem như kẻ hay thay đổi.
Gwadar có vị trí chiến lược trong khu vực Trung và Nam Á
Gwadar có vị trí chiến lược trong khu vực Trung và Nam Á
Để hoàn tất thương vụ này, Trung Quốc dự kiến phải chi 35 triệu USD cho công ty của Singapore và 2 tập đoàn khác cùng có cổ phần. Cổ đông thứ ba của cảng là National Logistics Cell, một tập đoàn trực thuộc quân đội Pakistan. Hiện Trung Quốc đang đợi phán quyết của một tòa án Pakistan hủy quyền kiểm soát khu cảng cuả công ty Singapore.
Một quan chức cấp cao của Pakistan tiết lộ với AP rằng ngoài số tiền trên, Bắc Kinh cũng đồng ý chi hàng trăm triệu USD để hoàn tất 900 km đường nối khu cảng với trục cao tốc Bắc – Nam của Pakistan.
Khi hoàn thành, tuyến đường sẽ giúp việc vận chuyển trên bộ từ Gwadar tới Trung Quốc được thông suốt. Ban đầu tuyến đường đã được dự kiến hoàn tất trong năm 2012 nhưng hiện mới chỉ có 60% khối lượng công việc được thực hiện.
Ngoài ra tuyến đường sẽ cắt ngắn quãng đường khoảng 4000 km từ tỉnh Tân Cương ra bờ biển ở phía Đông Trung Quốc xuống còn chỉ 2000 km để tới Gwadar. Trong kế hoạch dài hạn, một tuyến đường bộ và đường sắt có thể được xây dựng nối Gwadar tới các quốc gia dầu mỏ ở Trung Á.
Phát biểu trước báo giới hôm 31/1, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố: “miễn là dự án giúp tăng cường mối quan hệ Trung Quốc – Pakistan, Bắc Kinh sẽ ủng hộ dự án này”.

Vụ cụ ông 73 tuổi có thai do… “lỗi đánh máy”

Đi điều trị chấn thương cột sống nhưng cụ ông 73 tuổi ngụ tại Long An lại bị gán thêm chẩn đoán “thai 16 tuần” trong giấy ra viện. Sau khi phát hiện nhầm lẫn, bệnh viện đã chủ động liên hệ xin lỗi gia đình vì sự cố do “lỗi đánh máy”.
 >>  Ông già 73 tuổi... thai 16 tuần

Rạng sáng ngày 11/1/2013, cụ Nguyễn Văn Tính (73 tuổi, ngụ tại ấp Hòa Bình 1, xã Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) được gia đình chuyển đến bệnh viện Đa khoa khu vực Củ Chi. Tại đây, sau các kết quả kiểm tra bệnh nhân được chẩn đoán bị chấn thương cột sống nên chuyển đến điều trị tại khoa Ngoại thần kinh.
Nội dung chẩn đoán trong giấy ra viện ghi thai 16 tuần
Nội dung chẩn đoán trong giấy ra viện ghi "thai 16 tuần"
Sau 4 ngày theo dõi và điều trị tích cực, sức khỏe của bệnh nhân tương đối ổn định nên được bác sĩ cho xuất viện về nhà đồng thời chỉ định uống thuốc và hẹn ngày tái khám. Cả gia đình cụ Tính vui mừng vì chấn thương của cụ không để lại hậu quả nghiêm trọng. Sau khi xuất viện hai ngày, gia đình bất ngờ nhận được điện thoại từ bệnh viện với nội dung xin lỗi vì đã có sự nhầm lẫn ở phần nội dung chẩn đoán “thai 16 tuần” trong giấy ra viện của cụ.
“Trước đó, chúng tôi không không để ý đến giấy ra viện vì cả nhà đều an tâm bởi sức khỏe của cụ đã ổn. Sau khi nhận điện thoại từ bệnh viện, gia đình xem lại nội dung trong giấy thì đúng là có chẩn đoán: “Chấn thương cột sống thắt lưng/thai 16 tuần”. Chúng tôi thấy sự việc chẳng có gì phức tạp bởi bệnh viện đã giải thích rõ đây chỉ là sự cố do lỗi đánh máy,” anh Nguyễn Văn Ké, con trai cụ Tính cho biết.
Cùng với việc gửi lời xin lỗi sâu sắc đến cụ Tính và gia đình, BS Nguyễn Minh Thành - Giám đốc bệnh viện Đa khoa khu vực Củ Chi giải thích thêm: Trước thời điểm cụ Tính xuất viện, có một nữ bệnh nhân mang thai 16 tuần đã xuất viện, nhân viên hành chính của bệnh viện dùng mẫu giấy ra viện của nữ bệnh nhân này để chỉnh sửa lại làm giấy ra viện cho cụ Tính. Nhưng do bất cẩn nên còn sót lại thông tin “thai 16 tuần”. Chúng tôi cũng sơ suất vì không soát lại nội dung trong giấy ra viện của bệnh nhân.
Được biết, sau khi xảy ra sự cố trên bệnh viện đã tiến hành họp rút kinh nghiệm và kiểm điểm đối với những cá nhân có liên quan đến vụ việc.

Trang phục người Thăng long - Hà nội qua các thời kỳ lịch sử



Có nhà văn nói rằng, người Hà Nội trong bộ quần áo cần lao giản dị mà vẫn đượm vẻ phong lưu... Nhìn lại quá trình lịch sử, trang phục của người Thăng Long - Hà Nội đã có nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên cái vẻ đẹp lịch sự, tranh nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách quần áo thì vẫn được bảo tồn như là một đặc điểm riêng của trang phục Hà Nội.
Trang phục của người Hà Nội cổ thời kỳ "tiền Thăng Long" chưa có gì khác biệt so với trang phục của người dân Văn Lang - Âu Lạc nói chung: Nam mình trần, đóng khố, thân thể, chân tay đều có xăm hình giao long (rồng) và các hình khác. Nữ mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực bó sát vào người, phía trong mặc yếm che kín. Yếm tròn sát cổ, có trang trí những hình hạt gạo, ngoài ra cũng có một loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín ngực hở một phần vai và lưng. Hai loại áo này có thể là chui đầu hoặc cài khuy bên trái, trên áo cũng có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng làm cho thân hình tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả
xuống phía trước và sau người, tận cùng bằng những tua rủ. Váy bó sát thân với mô típ chấm tròn, những đường gạch chéo song song và hai vòng tròn có chấm ở giữa. màu sắc thường là màu vàng, đe n, đỏ nâu, xám nhạt, vàng nhạt. Các loại vòng tay, vòng cổ chân và vòng tai bằng đá, bằng đồng cũng là những vật liệu trang sức phổ biến cả ở nam và nữ. Đặc biệt, có những vòng hoa tai bằng đá gắn quả nhạc hay hình con thú. Những chuỗi hạt thường thấy gồm các hạt hình trụ, trái xoan hay hình cầu. Đàn ông đàn bà đều nhuộm răng đen và có tục ăn trầu cho đỏ môi.  
Đến thời kỳ độc lập tự chủ (kỷ nguyên Đại Việt) do điều kiện ổn định cả về chính trị, xã hội và đặc biệt là về kinh tế, Hà Nội đã trở thành kinh đô và là một trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Các cơ sở chăn tằm dệt lụa ra đời, việc bang giao với bên ngoài cũng làm cho thì trường vải vóc phục vụ cho nhu cầu mặc ngày một phong phú. Trong xã hội cũng đã có sự phân biệt đẳng cấp, trên có vua, quan, dưới có sĩ- nông- công -thương. Cách ăn mặc của người Hà Nội thời kỳ này cũng theo đó mà phân ra các phong cách và kiểu dáng, chất liệu khác nhau.  
Vua mặc áo bào vàng, quần tía, búi tóc, cài trâm vàng đội mũ triều thiên. Quan lại từ ngũ phẩm đến cửu phẩm mặc áo bào gấm, từ cửu phẩm trở lên mặc áo bào bằng vóc. Màu sắc của trang phục cũng được phân rõ: quan nhất phẩm màu tía, nhị phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu đào hồng. Khi vào triều phục phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu (mũ cánh chuồn). Quan liêu, sĩ phu mặc áo dài tứ thân, màu thâm, có cài khít, quần thâm, búi tóc, cài trâm sắt, đầu quấn khăn sa đen, đội nón chóp, đi dép ta, tay cầm quạt lông hạc. Trang phục võ tướng áo dài đến đầu gối, cánh tay áo may gọn gàng chật bó sát cổ tay, toàn thân áo được phủ lên những mảnh giáp hoặc những diềm vải trang trí hình xoắn ốc lớn, có trang trí thêm những quả cầu nhạc nhỏ hoặc tua rủ. Đai lưng bằng da thắt sát bụng làm nổi lên đường nét khoẻ khoắn của cơ thể.
Các thành phần khác như phi tần, cung nữ mặc xiêm, người hầu trong cung mặc váy mở; ca công, vũ công hay nhạc công trong cung đình cũng có những lối ăn mặc riêng: váy nhiều nếp, tóc búi cao, điểm những bông hoa, chân quấn xà cạp có trang trí hoạ tiết hoa văn. Binh lính chỉ mặc một áo xanh rộng tay, không có giáp, trụ (điển chế thời Lý -Trần- Lê sơ). Tầng lớp thứ dân trong kinh thành, nữ thường mặc áo tứ thân cổ tròn, quần thâm, khăn the bóng, thắt lưng lụa, đi giày dép bằng da, cấm không được sử dụng màu vàng, và búi tóc như cung nhân. Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm, đa số cạo trọc đầu.         
Sang thời Lê mạt do cơ cấu chính trị trong triều đình có nhiều thay đổi và trở nên phức tạp bởi hệ thống cung vua phủ chúa nên lối phục sức của tầng lớp quý tộc cũng ít nhiều thay đổi: Vua mặc long cổn, đội mũ tam sơn hay áo hoàng bào mang đai ngọc; Chúa mặc áo bào tía, đội mũ xung thiên mang đai ngọc; Hoàng thái tử (con vua) mặc áo xanh đội mũ dương đường; Vương thế tử (con chúa) mặc áo đỏ đội mũ cánh chuồn dát vàng, bố tử kỳ lân... Học trò và người thường khi có công việc đều mặc áo thâm, dân quê mặc áo vải thô màu trứng. Đến cuối thời Lê thì ai cũng mặc áo thanh cát màu thâm, xanh sẫm, màu sừng, màu trắng ít dùng. Có thời kỳ màu sừng là màu của tầng lớp vương, công, khanh, sĩ. Nhưng về sau bất kể người sang hèn đều mặc màu này. Còn các màu xanh sẫm, xanh nhạt thì lại cho là quê không dùng nữa.
Cuối thế kỷ XIIX đầu XIX, trang phục của người Hà Nội đã có nhiều thay đổi cả về chất liệu lẫn kiểu dáng. Những loại vải như the, lĩnh, lượt, là được sử dụng khá phổ biến với những kiểu dáng chính như tứ thân cho nữ, áo dài cài chéo vạt cho nam. Sang trọng nữa, đàn ông, đàn bà mặc áo dài lụa trắng bên trong, ngoài lồng áo may bằng sa, xuyến hoặc băng (là những loại vải mỏng có độ bóng, đôi khi có hoa). Vương hầu, quan chức thì dùng hàng đoạn, gấm, vóc. Đoạn gần như lĩnh nhưng dày hơn. Vóc là thứ đoạn mỏng có hoa đồng màu, còn gấm có hoa dệt màu sặc sỡ hoặc bằng kim tuyến. Hà Nội xưa còn có loại áo mặc trong đám cưới, do nhà chủ giàu có may cho tất cả các khách đến ăn cưới. Xong việc, những áo ấy được nhuộm lại, đem bán rẻ, gọi là “Cố y”. Dân lao động thì chủ yếu dùng áo vải nhuộm nâu, vải mỏng nhuộm nâu non lại là mặt hàng ưa thích của các cô gái bình dân để may áo cánh. Người khá giả cũng dùng màu nâu nhưng là lụa, đũi nhuộm nâu. Thế hệ người già thường thích màu tiết dê, tam giang. Phường Đồng Lầm (nay là làng Kim Liên, quận Đống Đa) có nghề nhuộm nâu nổi tiếng
Màu vàng vẫn bị cấm chỉ dành riêng cho nhà vua và áo khoác các tượng Thần, Phật. Màu đỏ chủ yếu dùng trong tầng lớp công, hầu, khanh, tướng. Vóc đỏ hay gấm đỏ tươi còn được gọi là màu đại hồng. Con quan to mới sinh ra cũng mặc áo đỏ. Còn nhà giàu chỉ khi bố mẹ khao thượng thọ mới được con cháu mừng cho chiếc áo the đỏ. Phường Hàng Đào chuyên làm nhuộm điều. Màu hoa đào bị coi là lẳng lơ, không đứng đắn, thường dùng cho người múa hát. Màu xanh nhạt “hồ thuỷ” hoặc “thiên thanh” được dùng nhuộm áo mặc lót trong hoặc để lót lần trong áo kép, áo bông. Các cô gái vùng ngoại thành lại thích màu hoa hiên. Mặc áo cánh nâu non, yếm lụa, thắt lưng màu hoa hiên, cũng là “mốt” một thời của các cô gái Hà Nội. Chị em nhỏ nhắn thì ưa thắt một dây lưng màu quan lục, hay tam giang cho nổi rõ cái lưng ong. Kiểu áo phổ biến vẫn là tứ thân, thắt lưng bằng dải lụa màu, còn gọi là “ruột tượng”. Nhà buôn thành thị, nhà giàu xứ quê, còn đeo vào thắt lưng một bộ “xà tích” bằng bạc với chiếc ống vôi nhỏ, quả đào xinh xinh đựng thuốc lào cũng bằng bạc và chùm chìa khoá...
Ngoài ra kiểu áo 5 khuy, tay rộng cũng được giới chị em 36 phố phường chấp nhận. Khi mặc, các cô chỉ cài 4 chiếc, để hở khuy cổ, khoe cái yếm cổ xây, ôm lấy cái cổ trắng nõn nà, cao ba ngấn. Phụ nữ phố phường hay dùng yếm trắng. Phụ nữ ngoại thành dùng yếm nâu. Hội hè mặc yếm đào, yếm hoa hiên. Các bà đứng tuổi ưa cổ xẻ, từ cổ yếm có 3 đường khâu xoè ra. Nam giới mặc áo dài năm thân, vải thâm, có khuy tết chỉ hoặc khuy đồng, khuy bạc, khuy ngọc... người hào hoa phong nhã thì mặc áo sa trơn, áo trong và quần màu trắng. Mùa rét, dùng áo kép, có thêm lần vải lụa lót màu tươi; áo bông cộc, trần quân cờ. Ngoài trang phục ra thì trong cách ăn mặc của người Hà Nội còn có nhiều thứ phụ trang đi kèm như giày dép, mũ, nón, ô, lại thên chút đồ trang sức bằng vàng, bạc như vòng, nhẫn, dây, xuyến... để làm tăng vẻ đẹp ngoại hình.
Nhìn lại quá trình lịch sử, trang phục của người Thăng Long - Hà Nội đã có nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên cái vẻ đẹp lịch sự, tranh nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách quần áo thì vẫn được bảo tồn như là một đặc điểm riêng của trang phục Hà Nội. Có nhà văn nói rằng, người Hà Nội trong bộ quần áo cần lao giản dị mà vẫn đượm vẻ phong lưu. Đó quả là một nhận định tinh tế.

Tục ăn trầu của người Hà nội .



Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi chắt lọc những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho riêng mình. Nét đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu - một phong tục mà theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dựng nước (qua sự tích Trầu Cau mà người Việt Nam hầu như ai cũng biết.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà Nguyên vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có câu:
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam Phố là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng Thiên (quãng phố Phủ Doãn và Ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt (nửa màu, nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ). Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua trầu phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày trước có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy người làng Chả ngày đó trồng trầu cũng rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gừng. Ngày nay người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá to đẹp. Người sành ăn trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây.
Têm trầu cánh phượng - Nghệ thuật của người Hà Nội
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầu bằng đồng hoặc quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng đồng thau đựng quết trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau cho đẹp và hạt không bị vỡ. Cũng chỉ là "Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh" nhưng cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm đỏ môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp, Người ta không cho cả cau, trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăn từng thứ một. Cau được nhai dập mới cho trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít vôi, khi ăn người ta thường lấy tay quệt ngang miệng, lâu dần tạo thành nét môi cắn chỉ. 
Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét rừng một khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai, săn bắt đồi mồi... Người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt nàng dâu tương lai, nhà trai đòi bằng được cô gái ra têm trầu, trước là để xem mặt cô dâu, sau là để xem cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa...
Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuổi mới ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes - một người Pháp nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: "Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn". Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc các ngày lễ Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia đình Việt Nam vẫn không thể thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ tổ tiên.
Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có nhiều ý nghĩa trên lĩnh vực y học, tâm lý xã hội... dùng trầu cau còn là một truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được gìn giữ và áp dụng trong cuộc sống của người dân

NỖI NHỚ HOÀNG SA

Cứ mỗi độ Tết đến xuân về, những người con đất Việt xa quê như tôi không nguôi nỗi nhớ quê hương, đặc biệt là nhớ về quần đảo Hoàng Sa thiêng liêng.
Việt Nam là nước đã chiếm hữu, thực thi chủ quyền một cách hoà bình và liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa từ đầu thế kỷ XVII.
- Những tài liệu lịch sử không chỉ của nhiều tác giả trong nước như “Toản tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686) hay “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776) mà còn được người nước ngoài ghi chép lại khi họ đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam đã chứng minh rõ ràng rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình trên quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ XVII. Vào thời kỳ này, Chúa Nguyễn cử các Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải ra quần đảo, mỗi năm khoảng 8 tháng, để khai thác các nguồn lợi, tài nguyên của đảo và những hoá vật từ những tàu bị đắm. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835, Vua Minh Mạng đã cho xây đền, đặt bia đá trên quần đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được giao thêm cả nhiệm vụ tuần tiễu, thu thuế trên đảo, bảo vệ quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp vào thống trị Đông Dương.
- Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, các triều đại phong kiến Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền trên quần đảo này một cách hòa bình, không có nước láng giềng nào cạnh tranh hoặc phản đối.
- Năm 1932, Pháp khẳng định An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa và sáp nhập quần đảo này vào tỉnh Thừa Thiên. Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về ký hoà ước với Nhật Bản khi đại biểu một nước lớn đề nghị thảo luận việc bổ sung Dự thảo Hòa ước nhằm mục đích giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc thì Hội nghị đã bác bỏ đề nghị đó với tuyệt đại đa số phiếu 46/51. Tại Hội nghị, khi Nhật Bản tuyên bố từ bỏ tất cả các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Đại diện Chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức tuyên bố và khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng phản đối. Sau đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã triển khai đóng quân trên hai quần đảo, quản lý hai quần đảo theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954; đồng thời luôn khẳng định và thực thi chủ quyền một cách hoà bình và liên tục đối với hai quần đảo. Năm 1961, Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam.
Trong khi đó, Trung Quốc mới chỉ biết đến quần đảo Hoàng Sa từ năm 1909:
- Trung Quốc không có bằng chứng lịch sử và pháp lý xác thực nào để yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Tất cả các bộ sử, sách địa lý, bản đồ các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều không thể hiện quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, cho đến đầu thế kỷ 20, “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” của Nhà xuất bản Thượng Hải in năm 1904, “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản năm 1905, tái bản năm 1910, đã thể hiện rất rõ ràng điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ là đảo Hải Nam và “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thử” xuất bản năm 1906 ghi rõ điểm mút ở phía nam Trung Quốc là Châu Nhai, Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18013' bắc.
alt

Đại Nam nhất thống toàn đồ 1834, một tài liệu cổ khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ảnh: vnu.edu.vn
- Năm 1909, nhà Thanh phái đô đốc Lý Chuẩn khảo sát quần đảo Hoàng Sa. Lý Chuẩn đã cho treo cờ và bắn súng trên quần đảo Hoàng Sa, thể hiện sự chiếm hữu. Đến thời điểm đó, Trung Quốc chưa hề có tên gọi đối với quần đảo này. Vì vậy, họ đặt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam một cái tên mới là "Tây Sa".
- Sau khi nhà Thanh sụp đổ (năm 1911), Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) đã có những hành động rất bài bản trong việc thôn tính quần đảo này, bao gồm việc sáp nhập vào đảo Hải Nam (1921), cho đấu thầu khai thác phân chim (1921-1927), đặt tên và vẽ quần đảo Hoàng Sa vào bản đồ Trung Quốc (1935), bác bỏ một hành động của Pháp nhằm dành lại chủ quyền cho Vương Quốc An Nam (1932-1938). Từ 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kế thừa Trung Hoa Dân Quốc ráo riết hoàn tất mưu đồ thôn tính quần đảo này. Từ lên tiếng đòi hỏi chủ quyền (1951), đến phản đối chính quyền Nam Việt Nam bắt giữ ngư dân (quân đội trá hình) Trung Quốc xâm nhập trái phép quần đảo Hoàng Sa (1959),
- Đỉnh điểm là những ngày giữa tháng 1/1974, Trung Quốc đã đưa nhiều chiến hạm và máy bay đánh phá và chiếm hoàn toàn các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Chính quyền Việt Nam cũng như Pháp đại diện cho nhà nước An Nam phản đối, nhưng họ ỷ vào thế nước lớn, cậy vào sức mạnh, bất chấp đạo lý và pháp lý, bất chấp dư luận và lợi ích nước láng giềng.
Sau 39 năm hoàn toàn chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc đã triển khai nhiều hoạt động từ pháp lý đến đầu tư cơ sở hạ tầng để hoàn thành mưu đồ độc chiếm quần đảo này; nhưng chúng ta, những người con đất Việt dù ở cương vị nào, ở trong hay ngoài nước không bao giờ được quên, không được từ bỏ vùng đất thiêng liêng của tổ quốc, nơi mà ông cha ta, những người trước khi ra đi khai phá, thực thi chủ quyền đã xác định không ngày trở về.
Vấn đề chủ quyền luôn rất thiêng liêng đối với mỗi con người, mỗi dân tộc, vì thế chúng ta quyết đòi lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Việc đòi lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa không thể một sớm một chiều, cũng không chỉ trong 10 năm, 20 năm mà có khi là đến đời con, đời cháu chúng ta. Nhưng từ bây giờ chúng ta cần ghi nhớ lịch sử, xây dựng những cứ liệu củng cố chủ quyền, khai thác những điểm yếu của Trung Quốc, một ngày nào đó chúng ta sẽ đòi lại được những thứ chúng ta đã bị chiếm mất.
(Bài viết do độc giả Minh Châu gửi tới Ban Biên tập BĐN)

CÁC NƯỚC ASEAN LẠNH NHẠT VỚI ĐỀ XUẤT “GÁC TRANH CHẤP, CÙNG KHAI THÁC” CỦA TRUNG QUỐC: VÌ SAO?

Ngày 7 và 8/1, Báo Hoàn Cầu đưa tin ông Mã Khắc Thanh, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines tiếp xúc với tờ báo Inquire của Philippines và nói Trung Quốc và Philippines cần “gác tranh chấp, cùng khai thác ở Nam Hải”.
Báo Hoàn Cầu nói “Chính phủ Philippines lạnh nhạt với đề xuất này” và trích nhận xét của Viện trưởng Viện nghiên cứu Nam Dương thuộc Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) rằng “chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác được Đặng Tiểu Bình đưa ra, Trung Quốc luôn tiếp tục chủ trương này, nhưng không nhận được sự hưởng ứng của các nước xung quanh”.
Đã rất nhiều lần, Trung Quốc quảng cáo cho chủ trương này ở các diễn đàn trong nước và quốc tế. Theo họ, đó là thang thuốc đặc trị cho vấn đề Biển Đông. Vậy thì tại sao các nước ASEAN lạnh nhạt không hưởng ứng đề xuất của Trung Quốc?
1. Thực tiễn gác tranh chấp, cùng khai thác
Theo Điều 56,57,76 và 77 Công ước UNCLOS các quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa rộng tối thiểu cũng 200 hải lý (có thể tối đa 350 hải lý nhưng phải được Uỷ ban Thềm lục địa của Liên Hợp quốc công nhận). Khi áp dụng quy định đó vào từng khu vực biển cụ thể thì xảy ra hiện tượng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của các nước chồng lấn lên nhau. Ví dụ ở vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và Trung Quốc chồng lên nhau. Ở vịnh Thái Lan, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của 4 nước Việt Nam, Cambodia, Thái Lan và Malaysia chồng lấn nhau rất phức tạp. Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Cambodia chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Thái Lan ở phía Tây, của Malaysia ở phía Nam và của Việt Nam ở phía Đông. Còn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Malaysia lại chồng lấn với Thái Lan, Cambodia và Việt Nam. Nhìn vào Biển Đông Hải sẽ thấy được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Nhật Bản, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên.
alt
Ảnh minh họa: Internet.
Khi có sự chồng lấn như vậy sẽ xảy ra tranh chấp giữa các quốc gia liên quan. Để xử lý những tranh chấp đó, Điều 74 và 83 Công ước UNCLOS quy định các nước có bờ biển tiếp liền hay đối diện tranh chấp về các vùng biển chồng lấn phải hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cách thức hoạch định là qua con đường thoả thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Toà án quốc tế nhằm đạt được giải pháp công bằng. Nếu không đạt được thoả thuận trong một thời gian hợp lý thì họ phải sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV của UNCLOS (đưa ra cơ chế hoà giải, đưa ra Toà án quốc tế về Luật Biển, đưa ra Toà án Lahay, đưa ra Toà Trọng tài). Trong khi chưa đạt được thoả thuận các bên liên quan có thể có dàn xếp tạm thời và các dàn xếp này sẽ không ảnh hưởng đến việc hoạch định cuối cùng.
Câu chuyện như vậy hết sức rõ ràng: UNCLOS có quy định về khả năng các nước có bờ biển tiếp liền hay đối diện có các dàn xếp tạm thời khi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ chồng lấn. Điều kiện tiên quyết theo UNCLOS là phải có sự chồng lấn giữa thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước liên quan. Thực tiễn quốc tế cũng có rất nhiều trường hợp dàn xếp tạm thời theo Điều 77 và Điều 83 của UNCLOS. Trung Quốc và Nhật Bản có thoả thuận về khai thác chung ở khu vực mà vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hai nước chồng lấn lên nhau. Thoả thuận này hai nước ký vào năm 2008, nhưng cho đến nay không có tiến triển. Năm 1979 Malaysia và Thái Lan ký thoả thuận về khai thác chung ở vùng thềm lục địa chồng lấn trong vịnh Thái Lan. Theo thoả thuận hai nước hợp tác khai thác trong khu vực 7250km2 với thời hạn 50 năm. Năm 1992 Việt Nam và Malaysia ký kết thoả thuận về khai thác chung ở vùng thềm lục địa chồng lấn trong vịnh Thái Lan. Thông tin cho biết hai thoả thuận này đang thực hiện bình thường.
2. Đề nghị của Trung Quốc “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông là vô lý
Bản thân đề nghị của ông Đặng Tiểu Bình “gác tranh chấp, cùng khai thác” không phải sai hoàn toàn. Chủ trương đó áp dụng vào các vùng biển ở Biển Hoa Đông là hợp lý vì ở đó thực sự tồn tại sự chồng lấn giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc với Nhật Bản và Hàn Quốc. Chủ trương đó đã hiện thực hoá trong thoả thuận giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
Trung Quốc kêu gọi các nước ASEAN có liên quan áp dụng chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác vào Biển Đông. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc và NFN Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn luôn nêu chủ trương đó. Họ trách các nước ASEAN cố chấp, từ chối một chủ trương hoà bình và cao đẹp của Trung Quốc.  Còn địa điểm cụ thể ở Biển Đông? Tại Hội thảo ở Hải Nam mấy tháng trước đây, Trung Quốc đề nghị Trung Quốc và Việt Nam gác tranh chấp cùng khai thác ở bãi ngầm Tư Chính trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý, còn ông Đại sứ Mã Khắc Thanh đề xuất Trung Quốc và Philippines “cùng khai thác” ở khu vực bãi Cỏ Rong thuộc phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Philippine. Các đề nghị đó của Trung Quốc hết sức, không có cơ sở. Các khu vực mà Trung Quốc không phải là khu vực tranh chấp thì làm sao có thể nói đến việc gác tranh chấp đẻ cùng khai thác. Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc thềm lục địa của Việt Nam. Ở đó không có sự chồng lấn với thềm lục địa của Trung Quốc. Do đó Việt Nam không thể nào chấp nhận được. Tương tự, khu vực bãi Cỏ Rong nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Philippine. Ở đó không có sự chồng lấn với thềm lục địa Trung Quốc, nên Philippine không thể nào chấp nhận được. Thử hỏi, nếu Việt Nam hoặc Philippines đề nghị Trung Quốc cùng khai thác ở ngoài bờ biển Quảng Đông thì Trung Quốc có đồng ý không? Chắc chắn Trung Quốc sẽ giãy nảy lên, cho rằng Việt Nam và Phillippines là điên rồ, không tưởng.
Tại một Hội thảo về Biển Đông tổ chức tại Singapore vào năm 2009, ông Hasim Jalan Đại sứ lưu động của Indonesia nêu rõ các nước ở khu vực Đông Nam Á đã thoả thuận nhiều về vấn đề này trong khuôn khổ Hội thảo không chính thức tại Jakarta. Ngay từ những năm 1992 -1993 chuyên gia của các nước đã cùng chuyên gia Trung Quốc, Đài Loan thoả thuận ý tưởng của Trung Quốc nhưng không có kết quả. Chuyên gia Trung Quốc chỉ khu vực thềm lục địa Việt Nam, Philippine, Indonesia, Malaysia và Brunei, chuyên gia các nước này bác bỏ đề nghị phi lý của Trung Quốc. Tại Hội nghị quốc tế về Biển Đông tại Washington DC vào tháng 6/2011 (ngay sau vụ Trung Quốc cắt cáp của tàu thăm dò Việt Nam trong thềm lục địa Việt Nam), ông Đại sứ Indonesia tại Mỹ cũng tiếp tục thông tin cho Hội nghị tình hình thảo luận ý tưởng này ở khu vực.
Từ năm 2009, Trung Quốc đưa yêu sách đường 9 đoạn và cho rằng đó là các vùng biển của Trung Quốc. Trung Quốc lý giải trong phạm vi đường 9 đoạn của Trung Quốc các nước liên quan nêu là vùng biển của họ, cho nên dẫn đến tranh chấp. Các nước ASEAN và các nước khác đều chỉ rõ yêu sách đó trái với UNCLOS, nên không thể nói chuyện ở đó có tranh chấp. Đã không có tranh chấp thì không thể bàn đến việc gác tranh chấp, cùng khai thác. Giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay có tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vậy ở khu vực đó liệu Trung Quốc có đồng ý gác tranh chấp về chủ quyền để cùng khai thác ở đó không?
Tóm lại, Việt Nam, Philippines và các nước ASEAN khác không hề bác lại khả năng cùng khai thác ở những nơi thực sự có tranh chấp, có sự chồng lấn giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước liên quan. Minh chứng là các thoả thuận cùng khai thác giữa Việt Nam và Malaysia và giữa Malaysia và Thái Lan. Các nước ASEAN lạnh nhạt, không hưởng ứng đề xuất của Trung Quốc “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông là vì đề xuất đó đem thềm lục địa của các nước ASEAN cho Trung Quốc cùng khai thác, biến thềm lục địa của các nước ASEAN thành vùng biển tranh chấp.

Đổi tiền lẻ dịp tết: Tờ 2 USD giá 3 triệu đồng

Nhiều người đã tìm đến dịch vụ đổi tờ 2 USD may mắn để tặng nhau. USD càng cổ, người mua càng chuộng và giá càng đắt.
 >> Kiếm bộn tiền nhờ các dịch vụ kỳ lạ
 >> “Sốt” tiền lẻ đầu năm, chợ đen ra sức hét giá

"Nóng" seri số đẹp
Chưa bao giờ tiền seri số đẹp lại được nhiều người lựa chọn như năm nay, đặc biệt là đồng 2 USD, một đồng tiền được coi là đồng may mắn cho người sở hữu. Cũng chính bởi lí do này mà không chỉ chợ đen mới có bán mà ngay cả các trang mạng cũng tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu của các thượng đế.

Một trong các rao vặt đổi tiền trên mạng internet
Một trong các rao vặt đổi tiền trên mạng internet
Dạo qua một vòng chợ đen đổi tiền trên đường Đinh Lễ, người mua có thể hỏi bất kì giá của loại tiền nào. Riêng tiền 2 USD được chào bán với giá 70.000 đồng/tờ, nếu muốn chọn seri ngày tháng năm sinh thì đắt hơn lên gấp đôi, gấp 3, riêng chọn seri số đẹp tăng lên gấp 4 - 5 lần so với giá ban đầu. Thường USD ở chợ đen Đinh Lễ là loại sản xuất năm 2003 nên không được đông khách hàng tìm đến.
Không chỉ có chợ đen, chợ đổi tiền online vào thời điểm này cũng đang hoạt động khá nhộn nhịp. Chỉ cần tìm kiếm (search) trên mạng, có thể hiện lên dịch vụ đổi tiền từ các mẩu rao vặt đến cả trang web chính thức. Tuy nhiên, giá cả đưa ra cho mọi người tham khảo chỉ là chung chung, hoặc không công bố giá, chỉ khi nào giao dịch, giá tiền sẽ tùy thuộc vào sự lựa chọn của khách hàng.
Liên hệ với nhân viên tên V.A của trang web dichvudoitien.com, V.A cho biết, tờ 2 USD năm nay rất thịnh hành, nhất là trong giới trẻ. Họ mua để mừng tuổi nhau và đặc biệt với tờ có seri số đẹp thường được chọn để tặng sếp hay một nhân vật quan trọng nào đó.
Năm nay rất thịnh hành tiền 2 USD có seri số đẹp như: tam hoa, tứ quý, ngũ quý và lục quý. Giá của tờ có tam hoa 6,8,9 là 250.000 đồng/tờ, giá của tờ 2 USD tứ quý 3333,5555,7777 hoặc 6666,8888,9999 có giá 1 triệu đồng/tờ; tờ có seri ngũ quý 5,7 giá là 1 triệu đồng/tờ, riêng lục quý là loại cực hiếm, không bán dưới 2,5 triệu/tờ. Tuy nhiên đó chỉ là những tờ 2 USD được sản xuất năm 2003, còn tờ 2 USD càng cổ, giá càng đắt.
Cũng theo báo giá của V.A, nếu USD phát hành năm 1976, tờ có số seri thường có giá 150.000 đồng/tờ, nếu seri số đẹp tăng gấp 3-4 lần. USD phát hành năm 63 tờ số thường là 350.000 đồng/tờ; năm 1953 có giá 450.000 đồng/tờ; năm 1928 có giá từ 500.000 đồng/tờ trở lên. Riêng năm 1917 tờ số thường là 3 triệu đồng. Nếu mua USD cổ, khách hàng phải đặt trước để dịch vụ đặt hàng từ nước ngoài gửi về. Nếu khách hàng chọn mua USD cổ còn mới, seri đẹp thì giá từ 2 triệu trở lên, USD càng cổ, giá càng đắt.
Một dịch vụ đổi tiền khác được rao vặt trên web vatgia.com, nhân viên tên H. cho biết, loại nào cũng có, nhưng phải đặt hàng trước mới có. Tuy nhiên H. báo giá, tờ 2 USD theo năm sinh có giá từ 70.000 đồng đến vài triệu đồng, tùy theo năm sản xuất. Còn riêng seri số đẹp thì phải gặp mặt, mới báo giá, không báo giá qua điện thoại.
Độc, lạ quà tặng sếp: USD bằng vàng nguyên chất
Khi PV hỏi nhân viên trang web đổi tiền về việc mua tờ USD lục quý để tặng sếp, V.A tư vấn, trang web này có rất nhiều người tìm 2 USD cổ mừng tuổi sếp. Để phục vụ nhu cầu mừng tuổi sếp đầu năm, dịch vụ này hiện đang cung cấp tờ để bàn 100 USD bằng vàng nguyên chất 24 carat do Mỹ sản xuất. Giá của tờ USD này là 4,3 triệu. Đây là món quà độc đáo, có giá trị và đẹp. Riêng trong tháng này đã có tới 6 đơn đặt món quà này để tặng sếp.
Cả bộ 6 tờ USD bằng vàng nguyên chất gồm các tờ: 1, 2, 10, 50 và 100 USD được đặt trong một khung tranh đẹp và sang trọng có giá 11 triệu đồng, loại này thì ít người đặt hơn vì quá đắt.
Ngoài ra, để phục vụ các bạn trẻ và những cặp đôi tặng nhau, trên thị trường còn có cả những tờ 2 USD mạ vàng sản xuất năm 2003 trị giá 450.000 đồng/tờ. Với mức giá vừa phải, hiện tờ USD mạ vàng đang được bán rất chạy.

Mệnh giá càng nhỏ, giá càng đắt
Dịch vụ đổi tiền lẻ, tiền mới để mừng tuổi, đi lễ chùa đầu năm theo tập quán của người Việt Nam cũng đang thi nhau "quát" giá. Tại chợ đổi tiền trên đường Đinh Lễ, giá 1 tập tiền 100 tờ loại 500 đồng lên tới 195.000 đồng/tờ, mệnh giá 1-2.000 đồng có giá 155.000 đồng/tập (100 tờ). Loại 5.000 đồng có giá 135.000 đồng/tập (100 tờ). Các mệnh giá lớn hơn, phí đổi là 15%.
Một nhân viên của dịch vụ đổi tiền trên mạng cũng báo giá loại tiền lẻ 500 đồng là 150.000 đồng/tập (100 tờ), loại 1-2.000 đồng chi phí đổi là 20%. Còn các mệnh giá còn lại, phí đổi tiền là 15%.
Cũng theo thông tin từ người đổi tiền, do Ngân hàng nhà nước không phát hành thêm loại mệnh giá 500 đồng nên ngoài thị trường tự do, tiền này tương đối khan hiếm. Bởi vậy phí đổi loại tiền này tăng cao.
Tại các ngân hàng, các phòng giao dịch đều trả lời là không còn tiền lẻ để đổi cho khách hàng. Tuy nhiên theo tìm hiểu của chúng tôi nếu người đổi tiền quen biết, hoặc là khách hàng thân thiết thì vẫn có thể đổi tiền lẻ không giới hạn số lượng với bất kì mệnh giá nào./.