Có
nhà văn nói rằng, người Hà Nội trong bộ quần áo cần lao giản dị mà vẫn
đượm vẻ phong lưu... Nhìn lại quá trình lịch sử, trang phục của người
Thăng Long - Hà Nội đã có nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên
cái vẻ đẹp lịch sự, tranh nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách
quần áo thì vẫn được bảo tồn như là một đặc điểm riêng của trang phục
Hà Nội.
Trang
phục của người Hà Nội cổ thời kỳ "tiền Thăng Long" chưa có gì khác biệt
so với trang phục của người dân Văn Lang - Âu Lạc nói chung: Nam
mình trần, đóng khố, thân thể, chân tay đều có xăm hình giao long
(rồng) và các hình khác. Nữ mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực bó sát vào
người, phía trong mặc yếm che kín. Yếm tròn sát cổ, có trang trí những
hình hạt gạo, ngoài ra cũng có một loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở
một phần vai và ngực hoặc kín ngực hở một phần vai và lưng. Hai loại áo
này có thể là chui đầu hoặc cài khuy bên trái, trên áo cũng có hoa văn
trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang
bụng làm cho thân hình tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả
Đến
thời kỳ độc lập tự chủ (kỷ nguyên Đại Việt) do điều kiện ổn định cả về
chính trị, xã hội và đặc biệt là về kinh tế, Hà Nội đã trở thành kinh đô
và là một trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Các cơ sở chăn tằm
dệt lụa ra đời, việc bang giao với bên ngoài cũng làm cho thì trường vải
vóc phục vụ cho nhu cầu mặc ngày một phong phú. Trong xã hội cũng đã có
sự phân biệt đẳng cấp, trên có vua, quan, dưới có sĩ- nông- công
-thương. Cách ăn mặc của người Hà Nội thời kỳ này cũng theo đó mà phân
ra các phong cách và kiểu dáng, chất liệu khác nhau.
Vua
mặc áo bào vàng, quần tía, búi tóc, cài trâm vàng đội mũ triều thiên.
Quan lại từ ngũ phẩm đến cửu phẩm mặc áo bào gấm, từ cửu phẩm trở lên
mặc áo bào bằng vóc. Màu sắc của trang phục cũng được phân rõ: quan nhất
phẩm màu tía, nhị phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu đào hồng. Khi vào
triều phục phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu (mũ cánh chuồn). Quan
liêu, sĩ phu mặc áo dài tứ thân, màu thâm, có cài khít, quần thâm, búi
tóc, cài trâm sắt, đầu quấn khăn sa đen, đội nón chóp, đi dép ta, tay
cầm quạt lông hạc. Trang phục võ tướng áo dài đến đầu gối, cánh tay áo
may gọn gàng chật bó sát cổ tay, toàn thân áo được phủ lên những mảnh
giáp hoặc những diềm vải trang trí hình xoắn ốc lớn, có trang trí thêm
những quả cầu nhạc nhỏ hoặc tua rủ. Đai lưng bằng da thắt sát bụng làm
nổi lên đường nét khoẻ khoắn của cơ thể.
Các
thành phần khác như phi tần, cung nữ mặc xiêm, người hầu trong cung mặc
váy mở; ca công, vũ công hay nhạc công trong cung đình cũng có những
lối ăn mặc riêng: váy nhiều nếp, tóc búi cao, điểm những bông hoa, chân
quấn xà cạp có trang trí hoạ tiết hoa văn. Binh lính chỉ mặc một áo xanh
rộng tay, không có giáp, trụ (điển chế thời Lý -Trần- Lê sơ). Tầng lớp
thứ dân trong kinh thành, nữ thường mặc áo tứ thân cổ tròn, quần thâm,
khăn the bóng, thắt lưng lụa, đi giày dép bằng da, cấm không được sử
dụng màu vàng, và búi tóc như cung nhân. Đàn ông thường cởi trần hoặc
mặc áo tứ thân màu đen bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm, đa số cạo trọc
đầu.
Sang
thời Lê mạt do cơ cấu chính trị trong triều đình có nhiều thay đổi và
trở nên phức tạp bởi hệ thống cung vua phủ chúa nên lối phục sức của
tầng lớp quý tộc cũng ít nhiều thay đổi: Vua mặc long cổn, đội mũ tam
sơn hay áo hoàng bào mang đai ngọc; Chúa mặc áo bào tía, đội mũ xung
thiên mang đai ngọc; Hoàng thái tử (con vua) mặc áo xanh đội mũ dương
đường; Vương thế tử (con chúa) mặc áo đỏ đội mũ cánh chuồn dát vàng, bố
tử kỳ lân... Học trò và người thường khi có công việc đều mặc áo thâm,
dân quê mặc áo vải thô màu trứng. Đến cuối thời Lê thì ai cũng mặc áo
thanh cát màu thâm, xanh sẫm, màu sừng, màu trắng ít dùng. Có thời kỳ
màu sừng là màu của tầng lớp vương, công, khanh, sĩ. Nhưng về sau bất kể
người sang hèn đều mặc màu này. Còn các màu xanh sẫm, xanh nhạt thì lại
cho là quê không dùng nữa.
Cuối
thế kỷ XIIX đầu XIX, trang phục của người Hà Nội đã có nhiều thay đổi
cả về chất liệu lẫn kiểu dáng. Những loại vải như the, lĩnh, lượt, là
được sử dụng khá phổ biến với những kiểu dáng chính như tứ thân cho nữ,
áo dài cài chéo vạt cho nam. Sang trọng nữa, đàn ông, đàn bà mặc áo dài
lụa trắng bên trong, ngoài lồng áo may bằng sa, xuyến hoặc băng (là
những loại vải mỏng có độ bóng, đôi khi có hoa). Vương hầu, quan chức
thì dùng hàng đoạn, gấm, vóc. Đoạn gần như lĩnh nhưng dày hơn. Vóc là
thứ đoạn mỏng có hoa đồng màu, còn gấm có hoa dệt màu sặc sỡ hoặc bằng
kim tuyến. Hà Nội xưa còn có loại áo mặc trong đám cưới, do nhà chủ giàu
có may cho tất cả các khách đến ăn cưới. Xong việc, những áo ấy được
nhuộm lại, đem bán rẻ, gọi là “Cố y”. Dân lao động thì chủ yếu dùng áo
vải nhuộm nâu, vải mỏng nhuộm nâu non lại là mặt hàng ưa thích của các
cô gái bình dân để may áo cánh. Người khá giả cũng dùng màu nâu nhưng là
lụa, đũi nhuộm nâu. Thế hệ người già thường thích màu tiết dê, tam
giang. Phường Đồng Lầm (nay là làng Kim Liên, quận Đống Đa) có nghề
nhuộm nâu nổi tiếng
Màu
vàng vẫn bị cấm chỉ dành riêng cho nhà vua và áo khoác các tượng Thần,
Phật. Màu đỏ chủ yếu dùng trong tầng lớp công, hầu, khanh, tướng. Vóc đỏ
hay gấm đỏ tươi còn được gọi là màu đại hồng. Con quan to mới sinh ra
cũng mặc áo đỏ. Còn nhà giàu chỉ khi bố mẹ khao thượng thọ mới được con
cháu mừng cho chiếc áo the đỏ. Phường Hàng Đào chuyên làm nhuộm điều.
Màu hoa đào bị coi là lẳng lơ, không đứng đắn, thường dùng cho người múa
hát. Màu xanh nhạt “hồ thuỷ” hoặc “thiên thanh” được dùng nhuộm áo mặc
lót trong hoặc để lót lần trong áo kép, áo bông. Các cô gái vùng ngoại
thành lại thích màu hoa hiên. Mặc áo cánh nâu non, yếm lụa, thắt lưng
màu hoa hiên, cũng là “mốt” một thời của các cô gái Hà Nội. Chị em nhỏ
nhắn thì ưa thắt một dây lưng màu quan lục, hay tam giang cho nổi rõ cái
lưng ong. Kiểu áo phổ biến vẫn là tứ thân, thắt lưng bằng dải lụa màu,
còn gọi là “ruột tượng”. Nhà buôn thành thị, nhà giàu xứ quê, còn đeo
vào thắt lưng một bộ “xà tích” bằng bạc với chiếc ống vôi nhỏ, quả đào
xinh xinh đựng thuốc lào cũng bằng bạc và chùm chìa khoá...
Ngoài
ra kiểu áo 5 khuy, tay rộng cũng được giới chị em 36 phố phường chấp
nhận. Khi mặc, các cô chỉ cài 4 chiếc, để hở khuy cổ, khoe cái yếm cổ
xây, ôm lấy cái cổ trắng nõn nà, cao ba ngấn. Phụ nữ phố phường hay dùng
yếm trắng. Phụ nữ ngoại thành dùng yếm nâu. Hội hè mặc yếm đào, yếm hoa
hiên. Các bà đứng tuổi ưa cổ xẻ, từ cổ yếm có 3 đường khâu xoè ra. Nam
giới mặc áo dài năm thân, vải thâm, có khuy tết chỉ hoặc khuy đồng,
khuy bạc, khuy ngọc... người hào hoa phong nhã thì mặc áo sa trơn, áo
trong và quần màu trắng. Mùa rét, dùng áo kép, có thêm lần vải lụa lót
màu tươi; áo bông cộc, trần quân cờ. Ngoài trang phục ra thì trong cách
ăn mặc của người Hà Nội còn có nhiều thứ phụ trang đi kèm như giày dép,
mũ, nón, ô, lại thên chút đồ trang sức bằng vàng, bạc như vòng, nhẫn,
dây, xuyến... để làm tăng vẻ đẹp ngoại hình.
Nhìn
lại quá trình lịch sử, trang phục của người Thăng Long - Hà Nội đã có
nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên cái vẻ đẹp lịch sự, tranh
nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách quần áo thì vẫn được bảo
tồn như là một đặc điểm riêng của trang phục Hà Nội. Có nhà văn nói
rằng, người Hà Nội trong bộ quần áo cần lao giản dị mà vẫn đượm vẻ phong
lưu. Đó quả là một nhận định tinh tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét