Năm
 1010, mới lên ngôi được 5 tháng, Lý Công Uẩn đã ban chiếu hỏi ý kiến 
triều đình về việc dời đô. Bài chiếu có đoạn nói về vị thế của miền đất 
sau này sẽ mang tên gọi có ý nghĩa “Rồng lên”: “ ... Thành Đại La ở vào 
chính giữa trời đất, có cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc
 đông tây lại tiện thế nhìn sông tựa núi. 
Cơ sở địa lý - lịch sử
Năm
 1010, mới lên ngôi được 5 tháng, Lý Công Uẩn đã ban chiếu hỏi ý kiến 
triều đình về việc dời đô. Bài chiếu có đoạn nói về vị thế của miền đất 
sau này sẽ mang tên gọi có ý nghĩa “Rồng lên”:
“
 ... Thành Đại La ở vào chính giữa trời đất, có cái thế rồng cuộn, hổ 
ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông tây lại tiện thế nhìn sông tựa núi.
Đất
 ấy rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa; dân cư không phải cái nạn 
tối tăm ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giầu thịnh đông vui. Xem khắp nước 
Việt, đó là đất danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương sum 
họp và là đô thành bậc nhất đáng mặt làm kinh sư cho muôn đời ”.
Quần
 thần hoan nghênh, và vào mùa thu năm đó, kinh đô được dời ra Đại La và 
tên mới được đặt là Thăng Long thành. Kể ra thì vùng danh thắng ấy, từ 
lâu đã cùng các địa phương khác góp phần làm nên sự thịnh vượng của đất 
nước, ít ra là từ khi trở thành phụ cận của kinh đô Cổ Loa lịch sử, rồi 
khi bị Bắc thuộc với các tên gọi Tống Bình, Tống Châu rồi Đại La thành. 
Tuy nhiên, phải từ 1010 trở đi, Thăng Long mới tỏ rõ là một đô thành lớn
 nhất nước Việt Nam trong nhiều thời kỳ lịch sử và có một cốt cách văn 
hoá rất độc đáo, rất riêng. Được vậy là do vùng đất này có những ưu thế:
Đó
 là một đồng bằng cao ráo, tiện lợi cho việc xây dựng. Dải đất ấy nằm ở 
giao điểm một mạng lưới sông ngòi để lên rừng xuống biển, sang Bắc vào 
Nam đều dễ dàng, trở thành một đầu mối giao thông tiện lợi cho việc phát
 triển kinh tế cũng như giao lưu văn hoá. Đấy là còn chưa kể rằng, vùng 
đất đó khá mầu mỡ, đủ điều kiện canh tác nuôi sống đông đảo cư dân. Và 
cuối cùng, Thăng Long, ấy là nơi tụ hội nhân tài, kết tụ tinh hoa khắp 
bốn phương, để làm thành nơi đô hội phồn thịnh.
Với
 những thuận lợi trên, cùng với năm tháng, Thăng Long - Hà Nội trải qua 
bao thăng trầm, để đến nay là một thủ đô phát triển từng được Chính phủ 
tặng danh hiệu “Thủ đô anh hùng” và được Uỷ ban Giáo dục Khoa học Văn 
hoá (UNESCO) Liên hiệp quốc tặng danh hiệu “Thành phố vì hoà bình”.
Là
 trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế hàng ngàn năm, nên Hà Nội nhất 
định phải trở thành đầu mối giao lưu của các vùng miền trong cả nước. 
Trong các mối giao lưu này, có giao lưu về văn hoá, về phong tục tập 
quán, nhờ đó, lối sống “trăm miền” đã hoà thành lối sống Kinh Kỳ - Thăng
 Long - Hà Nội. Cho nên phong tục tập quán của Hà Nội đa dạng, phong 
phú. Tuy nhiên trong đó cốt lõi vẫn là kế thừa và phát triển những nhân 
tố hợp lý, đẹp đẽ của phát triển tập quán của cộng đồng người Việt.
Vì
 là Kinh Kỳ, Thủ đô, trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế của một nước 
nên bên cạnh sự giao lưu văn hoá trong phạm vi nội địa còn có sự thâm 
nhập những giá trị văn hoá từ bên ngoài nhất là các nước đã có những 
tiếp xúc lịch sử với Việt Nam, Hà Nội (như Trung Quốc, Pháp trước kia 
hoặc Liên Xô, Hoa Kỳ thời hiện đại).
Cơ sở cư dân
Muốn
 xét những phong tục tập quán của một vùng thì điều kiện không thể thiếu
 là phải tìm hiểu những chủ thể đã sáng tạo ra các lề thói sống của vùng
 đó. Còn chưa tìm hiểu kỹ nguồn gốc, quá trình hình thành và đặc tính 
của của cộng đồng dân cư, thì còn chưa thể nói đến những cơ sở làm nên 
nét đặc trưng của tập quán, phong tục của một vùng quê nói chung, và của
 vùng đất Thăng Long - Hà Nội nói riêng.
Cư
 dân Thăng Long - Hà Nội thật không thuần nhất. Dải đất này nếu tính từ 
khi ra khỏi ẩn số của lịch sử thì là từ thế kỷ thứ V. Nhưng hỏi liệu bao
 nhiêu gia đình có từ ngày đó và tồn tại đến nay ở Hà Nội thì câu hỏi ấy
 không ai trả lời được. Thậm chí, cũng chưa ai trả lời được câu hỏi có 
bao nhiêu gia đình đã hiện diện tại Hà Nội từ khi bắt đầu là kinh đô 
Thăng Long (1010) thì cũng không có cứ liệu.
Kể
 ra, ở những làng ngoại thành và ven đô cũ (nay đa số đã nằm trong nội 
thành) mà là thuộc những phường nông nghiệp cổ thì cư dân ít xáo trộn 
nên có nhiều gia đình còn giữ được gia phả ngược lên đến tận thế kỷ XV, 
XVI. Như ở làng Trung Tự vốn thuộc phường Đông Tác xưa, nay là phường 
Trung Tự quận Đống Đa có họ Nguyễn (của những học giả Nguyễn Văn Lý, 
Nguyễn Hữu Kha...). Gia phả mà dòng tộc này còn giữ được cho biết: họ 
vốn gốc tự Gia Miêu, Thanh Hoá, ra cư trú tại Trung Tự từ thời Lê Thánh 
Tông (thế kỷ XV) và đến nay (2004) trẻ nhất là thế hệ thứ 18. Hay phả hệ
 của họ Phạm ở Đông Ngạc (Vẽ), huyện Từ Liêm - một gia tộc lớn với những
 chi Phạm Gia, Phạm Quang, có nhiều danh nhân, bác học - cũng ghi là gốc
 ở làng Đông Biện, Thanh Hoá, ra cư trú tại Vẽ từ cuối thế kỷ XIV đầu 
thế kỷ XV, nay trẻ nhất là thế hệ thứ 18. Còn họ Nguyễn ở làng Vân Điềm,
 huyện Đông Anh - dòng họ đã sản sinh ra các bậc đại nho như Nguyễn Án, 
Nguyễn Tư Giản và nhà viết tiểu thuyết lịch sử tài danh Nguyễn Triệu 
Luật - thì lại coi cụ Nguyễn Thực (1553 - 1637) là tổ thứ 1 và nay trẻ 
nhất là đời thứ 17 (gia phả còn cho biết đây chính là dòng dõi nhà Lý bị
 nhà Trần đổi ra họ Nguyễn; có điều là thời gian quá xa nên không rõ tên
 họ các cụ tổ họ Lý).
Đó
 là trường hợp những nơi ít biến động dân cư. Còn các khu vực vốn là 
những phường thương nghiệp và thủ công ở ven cửa Sông Hồng và ven Sông 
Tô (nay là khu vực các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng) thì dân cư
 xáo trộn nhiều. Người buôn bán và người làm hàng thường ít khi trụ 
nhiều đời ở một địa điểm. Là bởi hai lý do: một là phá sản, phải bật đi 
cầu thực ở tha phương; hai là, trong trường hợp ngược lại, do khá giả 
lên mà có nhu cầu tìm những nơi ở khác, sang trọng rộng rãi hơn, thuận 
tiện hơn cho kinh doanh, thậm chí chuyển hẳn sang tỉnh khác để làm giầu.
 Trong thực tế, nào có thiếu gì những trường hợp đúng như điều ghi nhận 
của câu ngạn ngữ cũ: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời!”. Việc hưng thịnh 
hay sa sút trong kinh doanh đâu có hiếm. Đấy là còn chưa kể đến hiện 
tượng nhiều con em các gia đình ở khu vực này thi đỗ, đi làm quan ở các 
tỉnh xa rồi cư ngụ luôn tại đấy, đôi khi kéo theo cả họ hàng đến ở cùng.
 Và luồng nhập cư vào Thăng Long cũng lại luôn diễn ra rất thường xuyên.
 
Thời
 nào cũng vậy, người “tứ chiếng” cũng vẫn đổ về Thăng Long - Hà Nội làm 
ăn. Có lần, vào thời Lê Thánh Tông, thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng 
Long đông quá khiến triều đình toan đuổi tất cả về nguyên quán. Chỉ đến 
khi biết rằng chính họ là nguồn cung nạp thuế quan trọng và làm ra nhiều
 sản phẩm cần thiết thì nhà vua mới xét lại mà đuổi riêng bọn du thủ du 
thực vô nghề nghiệp mà thôi. Hay như thế kỷ XVIII, trong Thượng Kinh 
phong vật chí cũng phải ghi: “Khách bốn phương, những người thích nơi 
Thượng kinh đua nhau đến ở quanh cả kinh đô, không lúc nào ngớt, đều cố 
nhanh chân rảo bước mà đến như tranh đến kinh đô nước Yên xưa”.
Có
 thể nêu một ví dụ: ở ngõ Phất Lộc nay thuộc quận Hoàn Kiếm còn có một 
ngôi nhà thờ họ Bùi Huy là một họ lớn, nổi lên ở Thăng Long từ đầu thế 
kỷ XVIII và cho tới nay họ vẫn có nhiều thành viên thành đạt cả trong và
 ngoài nước. Họ Bùi ấy vốn không phải gốc ở ngõ này. Và cái tên Phất Lộc
 cũng không phải tên gốc của ngõ đó. Đây vốn là ngõ Phúc Lộc thuộc huyện
 Thọ Xương.
Cuối
 thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, có một dòng họ Bùi quê quán làng Phất Lộc
 thuộc huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình lên Thăng Long ngụ ở cái ngõ lúc 
bấy giờ còn gọi là Phúc Lộc. Sau đó, con cháu phát đạt, người làm quan, 
người buôn bán giầu có, nên mua được phần lớn đất thổ cư trong ngõ. Sau 
đó, người làng Phất Lộc Thái Bình cũng theo gương ấy kéo ra ngụ cư tại 
đây, do vậy hầu hết đất ngõ thuộc về người Phất Lộc và đến một lúc nào 
đó, con ngõ được gọi là Phất Lộc. Nếu tính từ ông cụ tổ họ Bùi lên Thăng
 Long đến nay thì người trẻ nhất của dòng họ Bùi trong ngõ là đời thứ 11
 (gia phả còn ghi được 8 đời trước đó ở Phất Lộc, Thái Bình).
Còn
 đây là một ví dụ khác: họ Đỗ Đức vốn ở phường Thịnh Quang (nay vẫn mang
 tên này, thuộc quận Đống Đa), sau có một chi di vào làng Hạ Đình, thuộc
 xã Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân. Theo gia phả ghi lại thì cụ tổ 
thứ nhất của họ này có thể là ở Lạc Đạo (Hưng Yên) di sang Thịnh Quang 
từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Họ này từng có ông Đỗ Chân Thiết, 
một chiến sĩ của phong trào Đông du Phan Bội Châu, bị Pháp bắt xử tử, có
 bà Đỗ Thị Tâm đảng viên Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học, bị bắt và đã tự 
sát trong nhà tù Hoả Lò để phản đối chế độ nhà tù thực dân. Gần đây, có 
nhà văn Đỗ Đức Thu nổi tiếng thời 1938 - 1945.
Nhưng
 trong thực tế lịch sử, vẫn còn một nguồn cư dân khác gia nhập vào cộng 
đồng Thăng Long - Hà Nội. Đó là những người nước ngoài đến lập nghiệp ở 
nơi đây. Phần lớn trong số họ là người Hoa. Không kể những người Hoa mà 
tổ tiên sang Việt Nam, cư ngụ ở Đại La từ thời Bắc thuộc mà chỉ kể những
 người Hoa được phép sinh sống ở Thăng Long trải qua các triều Lý, Trần,
 Lê, thì sử cũ cũng đã từng ghi: năm 1274, có 30 thuyền người Hoa xin 
nhập tịch nước ta, được phép cư ngụ ở Thăng Long. Dư địa chí của Nguyễn 
Trãi (thế kỷ XV) cũng chép là, trong số 36 phường họp thành Kinh đô 
Thăng Long, có hẳn một phường người Hoa được cư trú. Đó là phường Đường 
Nhân. (Thời cổ có lúc cả thế giới gọi người Hoa là người nước Đường). 
Phường đó tương ứng khu vực phố Hàng Ngang và lân cận.
Khoảng
 thế kỷ XVI, người Hoa chỉ được phép cư ngụ ở Phố Hiến (Hưng Yên). Sang 
thế kỷ XVII họ được lên Thăng Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin 
chính quyền thành Thăng Long cho họ đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông 
Hồng từ bến Hàng Mắm đến tận bến Tây Long (tức chỗ Nhà Hát Lớn ngày 
nay). Chả là thuở đó sông Hồng chảy sát chân đê, tức chân đường Trần 
Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ. Cho mãi đến năm 1945, ở Hà Nội, vẫn 
còn hàng chục cửa hàng của các chi phái họ Phan từ Quảng Đông sang mở 
cửa hiệu ở Hàng Ngang khoảng trăm năm trước, đã Việt hoá hoàn toàn. Đó 
là các hiệu Phan Hưng Thành, Phan Hoà Thành, Phan Đức Thành, Phan Thái 
Thành... và những thế hệ người Hoa ở phố Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), 
Hàng Buồm, Hàng Bồ… Tuy nhiên, suốt quá trình nhập cư, có rất nhiều gia 
đình người Hoa đã Việt hoá, nhập tịch làng Việt, trang phục như người 
Việt, đàn bà cũng vấn khăn, nhuộm răng, ăn trầu.
Ngoài
 người Hoa phải kể đến người Chăm, những lớp người được đưa từ phương 
Nam ra trong nhiều trường hợp khác nhau. Trong đó, trừ những người bị 
bắt đưa ra sau các cuộc chiến tranh thì số người tự nguyện đến ViệtNam, 
đến Thăng Long - Hà Nội cũng là không ít. Sử cũ còn ghi: năm 1039, một 
hoàng tử con vua Chăm đã cùng 5 gia tộc vượt biển ra Thăng Long quy phục
 nhà Lý. Năm 1390, lại có hai hoàng tử làm như vậy đối với nhà Trần. Còn
 quy phục nhà Lê thì có một quý tộc Chăm, tên là Phan Mỗ, năm 1448, đem 
theo bà con họ hàng làng xóm tất cả 340 người. Các làng ở Hà Nội, nếu 
trong tên có chữ Sở thì phần lớn là các sở đồn điền dành cho người Chăm 
như Vĩnh Tuy Sở, Thịnh Quang Sở, Xuân Tảo Sở, Quán La Sở... Đặc biệt có 
làng Phú Gia (quận Tây Hồ) có hai họ Bố và Ông là gốc Chăm (mãi tới đời 
Tự Đức khoảng 1848-1950 một viên quan phủ hoặc huyện hách dịch không 
muốn dân xưng bố và ông với quan nên bắt đổi Bố ra Hi và Ông ra Công. 
Nay hai họ này vẫn là cư dân chính của làng Phú Gia. Sách Hoàng Lê nhất 
thống chí có kể chuyện ông Phương Đình Pháp, một vị quan can đảm thời 
vua Lê Cảnh Hưng, đã dám ngăn không cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đeo 
gươm đi lên chính điện gặp vua. ông Pháp là người Quán La Sở và gốc 
Chăm. Còn trước đó thì có bà Phan Ngọc Đô, một phi tần được vua Lê Thánh
 Tông (?) đưa ra Thăng Long, cho ở tại trang Thiên Niên (nay là Trích 
Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ). Bà đã dạy cho dân vùng này dệt một mặt 
hàng lụa rất mỏng, mịn, nhuộm thâm, bóng láng, mặc mát, gọi là dệt lĩnh.
Luồng
 nhập cư đã liên tục và mạnh mẽ thì cư dân tất phải xáo trộn. Các thế hệ
 “tứ chiếng” kéo về Thăng Long sinh cơ lập nghiệp đã lập ra các phố 
phường trải qua chiều dài của hàng chục thế kỷ. Những lớp người ấy, lẽ 
tất nhiên phải đem đến Thăng Long - Hà Nội những lề thói của địa phương 
mình. Song các lề thói ấy, theo thời gian, đã được chung đúc lại, chắt 
lọc ra, hoà với người Thăng Long bản địa để cùng tạo nên cái phong tục 
riêng của chốn Kinh Kỳ, cái vẫn được tục ngữ gọi là “đất lề quê thói”, 
nhưng đã là lề là thói mang những nét thanh lịch riêng có ở chốn Thượng 
kinh. 
Nói
 cách khác, các thế hệ nhập cư Thăng Long đã tự điều chỉnh, tự hoàn 
chỉnh nhân cách, nâng cao lên cho hợp với điều kiện và môi trường kinh 
đô. Sự tồn tại của họ chính là kết quả của quá trình hoà đồng, dung hội 
lâu dài. Cho nên, dù không thuần khiết như làng quê, song ở Thăng Long -
 Hà Nội đã thực sự hình thành một cộng đồng mới với những quan hệ mới, 
và theo đó, hình thành những lề thói riêng của dải đất kinh kỳ này. Cứ 
thế, trải ngàn năm, miền đất đẹp đẽ, linh thiêng Thăng Long - Hà Nội đã 
thành một vùng văn hoá với những phong tục tập quán nảy sinh từ sự hoà 
hợp các cư dân của nhiều miền tụ hội về.