Làng
cổ Đường Lâm, Sơn Tây là nơi thu hút không ít nhiếp ảnh gia, đạo diễn,
các nhà quay phim và nhiều học giả. Không chỉ có truyền thống văn hóa,
lịch sử lâu đời, đây còn là mảnh đất du lịch rất đẹp. Đặc biệt, Đường
Lâm có chùa Mía ẩn mình trong sương sớm, nơi để con người chìm vào thế
giới thâm nghiêm, tạm quên đi cuộc sống ồn ào, vội vã.
Không giống như nhiều ngôi chùa khác, chùa Mía vào mùa xuân không ồn ào hay nghi ngút khói hương mà vẫn yên tĩnh, trang nghiêm.
Chùa
Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần
thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và
gìn giữ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Chùa Mía tên hiệu là
“Sùng Nghiêm Tự”, nằm trên vùng đồi của làng Đông Xàng (xã Đường Lâm,
thành phố Sơn Tây), cách Hà Nội gần 50 cây số về phía tây.
Đường Lâm là một điển hình làng cổ Việt Nam,
vừa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Nơi đây vẫn còn cây đa, bến nước, sân đình, những ngôi nhà đỏ rực tường
đá ong kiên cố, như chẳng hề có vết tích thời gian.
Thế
kỷ XVII, chùa bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Năm 1632, Cung phi Nguyễn
Thị Ngọc Dung đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Xàng,
Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn… các làng thuộc Tổng Mía cùng tôn tạo lại.
Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, là phi tần trong phủ
chúa Trịnh Tráng (1623-1657) vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An).
Nhân
dân trong vùng mến mộ uy đức của bà, đã tạc tượng đem thờ ở chùa. Người
dân nơi đây tôn sùng bà là “Bà Chùa Mía”. Về sau, Chùa được tu bổ nhiều
lần, nhưng đến nay từ quy mô đến kiến trúc của chùa vẫn được giữ gần
như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621)
nói về việc lập chùa.
Ngày
nay, con đường đi vào chùa Mía đã được xây đắp lại, đẹp và sạch sẽ hơn.
Từ trung tâm thành phố Sơn Tây, đi khoảng 5 cây số là đến cổng chùa. Từ
đây đi thêm một quãng nữa, du khách sẽ đi qua chợ Mía, ngôi chợ nhỏ, để
người dân buôn bán nông sản.
Ghé
vào quán của một cụ bà, ngắm cổng tam quan đơn giản, mộc mạc được tán
cây đa già che chở, hẳn nhiều người đều có cảm giác dường như mảnh đất
này không hề chịu tác động từ thế giới bên ngoài. Chùa Mía giản dị ngay
từ cái nhìn đầu tiên, để du khách khi bước vào mới thấy vẻ đẹp này mấy
nơi có được. Chùa Mía không ồn ào bởi nhiều dịch vụ trong cúng lễ như ở
các đền chùa khác, không sơn son thếp vàng như những ngôi chùa phương Nam, đặc biệt là có một số lượng lớn tượng cổ.
Cấu
trúc chùa Mía gồm các tòa tam quan, chính điện, thượng điện, nhà tổ,
hành lang san sát, nối kề nhau theo hình chữ Mục. Bước qua cổng Tam
quan, nhìn sang bên phải, du khách sẽ nhìn thấy cây đa cổ, gốc to khít
vòng tay mấy người ôm, rễ cây rắn chắc nổi lên trên mặt đất. Đối đỉnh
với ngọn đa già là tòa bảo tháp cử phẩm Liên hoa. Tòa tháp này mới được
xây dựng để thờ vọng Xá lợi Phật. Đây cũng là ngọn Tháp bút, Kính thiên,
được coi là trấn giữ cho mạch âm của làng quê được an lành và phát
triển. Đi vào bên trong là khu nội điện gồm tiền đường, đại hùng, bảo
điện, thượng điện được cấu trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc” rất bề
thế.
Thắp
hương ở đền chính rồi cứ thế men theo những hành lang nối dài, ban thờ
này nối tiếp ban thờ kia, không bao giờ phải quay lưng lại ban thờ nào.
Cảm giác uy nghiêm, bao bọc linh thiêng của chốn Phật đường, dễ dàng tạo
cảm giác yên bình, tĩnh tại. Phía trái tiền đường có một tấm bia cao
ngang đầu người đặt lên lưng một con rùa đá lớn, có niên đại từ thời Đức
Long năm thứ 6 (1632) đời Lê. Tấm bia ghi lại công trạng của Bà Chúa
Mía đã dựng chùa ra sao. Tấm bia được coi là to lớn và cổ xưa nhất còn
lưu giữ đến ngày nay.
Tháng
5-2006, Thành hội Phật giáo TP.HCM kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục
Việt Nam công bố 10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam, trong đó có Chùa
Mía là nơi lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam. Ở đây có đến
287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp
vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng.
Những
pho tượng nổi tiếng là tác phẩm điêu khắc sinh động như: tượng Tuyết
Sơn, tượng Di Lặc, tượng Bát Bộ Kim Cương… Tượng Tuyết Sơn cao 0,76m,
không to lớn và nổi tiếng như tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương, nhưng
cũng được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo. Tám pho tượng làm bằng đất
nung ở tòa thượng điện lại đặc biệt nổi bật với hình khối, bố cục vững
chắc, thân hình khỏe khoắn, hài hòa, thể hiện con mắt và bàn tay tinh
xảo của những nghệ nhân xưa.
Trái
với những đường nét chạm khắc đầy oai nghiêm trên bức tượng Bát Bộ Kim
Cương là tượng Quan Âm Thị Kính với những đường nét mềm mại, uyển chuyển
và tinh xảo. Tượng miêu tả một người phụ nữ thùy mị, gương mặt phúc
hậu, bế đứa nhỏ bụ bẫm, kháu khỉnh.
Chùa
Mía không rộng và đông đúc khách thập phương đến viếng như chùa Tây
Phương, chùa Hương hay những ngôi chùa nổi tiếng khác. Ghé thăm chùa vào
những ngày đầu xuân, vẫn thấy chùa yên tĩnh, cổ kính như ngày thường.
Khách viếng chùa không ồn ào, chen chúc. Khói hương không nghi ngút,
thoảng trong không gian tĩnh mịch là tiếng chuông chùa văng vẳng. Người
dân ở đây hiền lành quá, chẳng ai dám phá vỡ khung cảnh tĩnh mịch của
ngôi chùa cổ linh thiêng.
Từ
chùa Mía, du khách đi bộ khoảng 300m là tới một ngôi đền mà các cụ bán
hàng trước cổng gọi là đền Mẫu. Người dân đi lễ chùa Mía ngày xuân
thường sang đây xin một quẻ thẻ đầu năm lấy may, rồi xin bảng thẻ theo
số quẻ thẻ rút được. Không có thầy giải quẻ, nhưng ai nấy đều tự luận
bảng giải, cũng là niềm tin tưởng về một năm nhiều tài lộc, may mắn.