Đền
Hương Tượng hiện toạ lạc tại số nhà 64 phố Mã Mây, phường Hàng Buồm,
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa, nơi đây thuộc giáp Hương Tượng,
phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu, tổng Hữu Túc. Đến thời Nguyễn
đổi là tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức.
Nằm
ở ngã Tô Giang - Nhị Thuỷ, một địa danh nổi tiếng của vùng đất Kinh kỳ,
trên bến dưới thuyền nhộn nhịp. Xưa nơi đây không chỉ có lại buôn tứ
trấn mà còn nhiều thương nhân nước ngoài đến đây làm ăn buôn bán. Sự có
mặt của ngôi đèn Hương Tượng cùng các di tích khác ở xung quanh đã góp
phần tạo nên giá trị và sự hấp dẫn của khu phố cổ Hà Nội.
Các
nguồn tư liệu Hán - Nôm hiện còn được bảo quản tại đền như : Thần tích,
sắc phong, hoành phi, câu đối… cho biết đền Hương Tượng thờ Nguyễn
Trung Ngạn - một nhân vật nổi tiếng dưới triều Trần. Làm quan trải 5 đời
vua đến chức Đại học sĩ, Trụ quốc khai huyện bá, Thân quốc công, ông
từng lại Đại doãn kinh sư. Ông là một nhà chính trị, một nhà văn có tài,
để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đời: “Giới hiên thi tập”, “Ma Nhai
kỹ công bi”, “Hoàng Triều đại điển”, “Hình thư”. Hiện nay, thư viện
Khoa học Xã hội còn giữ một tập thơ chép tay sách năm Ất Mùi niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 36 (1775) với nhan đề “Vựng tập Giới hiên thi cảo toàn
trật”. Tập thơ của ông được chép toàn bộ trong “Toàn Việt thi lục” của
Lê Quý Đôn.
Theo
tấm bia “Hương Tượng giáp trùng tu bi ký” dựng năm Ất Dậu niên hiệu
Minh Mệnh năm thứ 6 (1825) thì “… Miếu Đại vương áo tía của giáp ta được
sáng lập từ triều Trần đến nay hơn 400 năm, tưởng rằng từ khi các bậc
tiên hiền của giáp ta bỏ tiền của ra làm, phía trong là thần điện, trước
thần điện là trung điện, trước trung điện là tiền điện liền nhau đều là
3 gian. Bên ngoài là cửa, xung quanh xây tường gạch, giáp ta quanh năm
thờ cúng…”.
Khi
nói về đợt trùng tu năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái năm thứ 16
(1904), tác giả văn bia cho biết thêm: “Ngôi đình của giáp ta sáng lập
từ triều Trần, trang nghiêm rộng rãi. Phía trên để thờ các vị phúc thần,
phía dưới để thờ các vị anh hùng dân tộc…”.
Như
vậy, qua các nguồn tư liệu thư tịch cổ nói trên, có thể thấy di tích
đền Hương Tượng được khởi dựng từ triều Trần. Trải qua các triều vua đều
được ban sắc phong thần và được trùng tu sửa chữa nhiều lần qua các
năm: Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737), Gia Long (1802 - 1820), Minh Mệnh năm
thứ 6 (1825), Tự Đức (1848 - 1883), Thành Thái năm thứ 16 (1904). Diện
mạo của ngôi đền hiện nay mang dấu vết của lần trùng tu dưới triều
Nguyễn.
Đền
Hương Tượng được xây dựng theo hướng tây, trông ra phố Mã Mây. Các công
trình kiến trúc của đền được tập trung trong một khoảng không gian
thoáng mát, ẩn mình dưới gốc cây si già cổ thụ quanh năm tán rủ um tùm.
Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: một cổng nhỏ phía trước, sân gạch
phía sau, tiếp theo là khu kiến trúc chính. Đền có quy mô kiến trúc
kiểu chữ “Tam”, gồm tiền tế, trung đường và hậu cung. cả ba nếp nhà này
đều bố cục mặt bằng một gian hai dĩ, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc tay
ngai.
Cấu
trúc bộ khung gỗ nhà tiền tế bao gồm hai bộ vì chính được làm thống
nhất theo kiểu giá chiêng. Mỗi vì có kết cấu mặt bằng theo lối 4 hàng,
chân được kê trên các chân tảng đá xanh hạt mịn, hình lục lăng.
Trung
đường nối tiền tế và hậu cung có ranh giới giữa các mái làm khít nhau,
phía dưới là hệ thống máng thoát nước. Nhà có mái lợp ngói ta, dựng bán
mái. Hai bộ vì giữa có kết cấu kiểu vỏ cua trang trí mặt hổ phù. Lối kết
cấu này thường gặp ở các kiến trúc tôn giáo chịu ảnh hưởng của kiến
trúc Trung Hoa. Điều đó cũng góp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu kiến
trúc dân gian ở thủ đô Hà Nội.
Hậu
cung có phần mái cao vượt lên so với trung đường khoảng 50 cm, thể hiện
sự trân trọng đối với nơi toạ lạc của thần. Nhà có 4 bộ vị được làm
thống nhất theo kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị” được kẻ soi, bào
trơn trông rất nhẹ nhàng. Chính giữa hậu cung là một sàn gỗ cao: 148cm,
rộng: 240 cm, ván bưng ba mặt, bên trong bài trí long ngai bài vị thờ
thần Nguyễn Trung Ngạn có mỹ tự là Tử Y Đại vương.
Nhìn
chung, trang trí trên kiến trúc đền Hương Tượng chủ yếu mang phong cách
thời Nguyên. Các mảng trang trí được tập trung trên các bức cốn, đầu
dư, đầu xà, đấu kê, tất cả đều được chạm trổ dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Đền
Hương Tượng hiện còn bảo lưu bộ sưu tập di vật văn hoá có giá trị lịch
sử. Trong đó, 6 đạo sắc phong thần của ba triều đại Lê - Tây Sơn -
Nguyễn có giá trị hơn cả, sớm nhất có đạo sắc niên hiệu Cảnh Hưng năm
thứ 44 (1783), Chiêu Thống thứ nhất (1787) , Quang Trung thứ tư (1791),
Cảnh Thịnh thứ nhất (1793), Tự Đức thứ 18 (1865) và Khải Định thứ 9
(1924).
Phần
đóng góp không nhỏ để nâng cao giá trị của di tích là hệ thống bia đá
cổ gồm 7 tấm, bia sớm nhất có niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737). Đặc
biệt tấm bia niên hiệu Minh Mệnh năm thứ 6 (1825) có nội dung ghi việc
xây dựng ngôi đền. Ngoài giá trị sử liệu, bia đá trong di tích đền Hương
Tượng còn là những di vật quý giá. Qua nội dung của bài vănbia, ta có
thẻ thấy cả một kho tư liệu phong phú với những tên người, tên đất,
ngoài sự kiện cụ thể của các danh nhân ở địa phương. Ngoài phương diện
đó, bia còn có giá trị về nghệ thuật chạm khắc, tạo hình và thư pháp qua
các thời kỳ lịch sử. Nó còn là chứng cứ tỏ rõ sắc thái của một vùng đất
có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời.
Từ
những nội dung đã nêu trên cho thấy, đền Hương Tượng là một trung tâm
sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng dân cư, nơi bảo lưu những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Đền Hương Tượng không chỉ là
di tích có giá trị về mặt lịch sử - văn hoá, kiến trúc - nghệ thuật mà
còn là một điểm văn hoá hấp dẫn trong tuyến tham quan du lịch các di
tích lịch sử - văn hoá tiêu biểu của khu phố cổ Hà Nội.