Cuộc
chuyển động qua những năm tháng dài lâu của hệ phong tục tập quán Thăng
Long - Hà Nội - được tinh thần dân tộc tạo cho sự định hướng cơ bản, và
theo thời mà có thêm những tác động của những ý thức tư tưởng như Phật
giáo, Đạo giáo, hoặc Nho giáo - thực chất là một cuộc vận hành theo trục
dọc của thời gian. Còn trên bình diện và theo chiều ngang của không
gian xa gần thì phong tục tập quán ấy còn có những chuyển động, chuyển
hoá đặc sắc, mà sự tiếp nhận và cải biến chính là động thái cũng rất đặc
trưng.
Theo
sách Việt sử lược, thì vào thời Lý, năm 1048, ở Thăng Long, có một
phong tục cung đình đã được chiếu chỉ của vua Lý Thái Tông ghi nhận:
“Định phép đánh Xuân ngưu”. Sang đến thời Trần, tục “đánh Xuân ngưu” ở
Thăng Long ấy lại được sách An Nam chí lược chép rõ: “Tiết lập xuân, vua
sai vị trưởng họ dùng roi đánh con trâu bằng đất”, xong rồi thì các
quan liêu đều cài hoa lên mũ, vào cung hội yến. Đến thời Hậu Lê, trong
hai thế kỷ XVII, XVIII, qua sách vở đương thời và theo sự mô tả trong
các tài liệu của những người phương Tây khi ấy có mặt ở Kẻ Chợ - Thăng
Long, thì một phong tục và lễ tiết có tên là “Tiến xuân ngưu” cũng đã
được tổ chức rất trọng thể và cầu kỳ vào dịp Lập xuân hằng năm ở kinh
thành. Từ chiều tối và đêm hôm trước, đến tận sáng và trưa hôm sau, lễ
Tiến Xuân ngưu diễn ra trên một diễn trường liên hoàn rộng lớn - từ
phường Đông Hà (ở bờ sông) vào đến tận điện Kính Thiên (trong Cấm thành)
qua Cửa Nam, ra Cửa Đông rồi sang đến tận khu Phủ Chúa Trịnh - có sự
tham gia, chứng kiến, lễ lạy, chia phần, rước xách… của đủ mọi tầng lớp,
từ vua chúa, quan quân đến chúng dân rất đông đảo, xung quanh một lễ
vật - cũng là “đạo cụ” chính - là một con trâu làm bằng đất. ý nghĩa của
phong tục đặc biệt Thăng Long - Kẻ Chợ này đã được kinh điển Nho giáo
Trung Quốc xác định là theo thiên “Nguyệt lệnh” trong sách “Kinh Lễ”:
“Làm con trâu bằng đất để tống hết khí lạnh… để tống hết hung tà kẻo
sang năm (mới) làm hại cho người”. Vậy theo Kinh Lễ, tiến Xuân ngưu là
một nghi thức đón xuân. Nhưng với người Thăng Long, đây còn là một hình
thức “khuyến nông” được nâng lên tới mức trở thành sùng kính.
Như
thế, tục lệ Trung Hoa cổ đại “Đả (đánh) Xuân ngưu” đã du nhập vào Thăng
Long ngay từ những năm đầu định đô, trở thành một nghi thức mừng xuân
trong hệ thống phong tục tập quán cung đình trùm phủ lên cho đô thị kinh
thành. Nhưng đến khi chuyển hoá thành tục lệ “Tiến (dâng) Xuân ngưu”,
được thực hiện trên cả hai vùng “trong thành, ngoài thị” cho đến tận
cuối thời trung cổ - trên một địa bàn toàn là phố phường, cung điện -,
thì những con trâu đất ở đây đã mang một ý nghĩa mới là biểu hiện sự
trọng thị nghề nông ở khắp nơi. Như thế, phải coi đây là một trường hợp
tiêu biểu cho động thái vừa tiếp nhận vừa lan toả của hệ thống phong tục
tập quán Thăng Long - Hà Nội cổ truyền.
Động
thái “tiếp nhận - cải biến - lan toả” theo chiều ngang của không gian
ấy còn được thấy qua nhiều biểu hiện khác nữa, mà tiêu biểu là tục phong
thờ thần thành hoàng và tổ nghề ở đô thị kinh thành.
Thành
phố Hà Nội tính đến năm 2000 vẫn đang còn di tích của 551 ngôi đình
trên toàn địa bàn 14 quận huyện của mình, chiếm một tỷ lệ rất cao là gần
một phần ba trong tổng số 1774 di tích lịch sử - văn hoá của Thủ đô
(551/1774), rải đều trên toàn địa bàn nội ngoại thành. Ngay ở năm quận
nội thành - đất đô thị gốc - các ngôi đình cũng có tỷ lệ đáng kể trong
số các di tích như đình, đền, chùa, miếu, lăng, điện, nhà thờ họ, di
tích cách mạng đã được xếp hạng, như ở quận Ba Đình 8/22, quận Hoàn Kiếm
6/23, quận Đống Đa 9/36, quận Hai Bà Trưng 5/23, quận Tây Hồ 5/21 ((1)
Vẫn Theo thống kê của sách Di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội. (Sđd)1).
Có
hai loại đình. Một là đình của dân bản địa thờ thành hoàng bản địa. Và
hai là đình của dân từ các địa phương khác về lập nghiệp dựng lên để thờ
thành hoàng ở quê gốc hoặc thờ tổ nghề được tôn vinh ngang với thành
hoàng.
Đình,
với ba chức năng chủ yếu là: nơi thờ thành hoàng làng, trụ sở hành
chính (nơi bàn việc làng) và là nơi tổ chức các sinh hoạt cộng đồng (hội
hè đình đám), là hình ảnh, đồng thời cũng là di sản vật thể tiêu biểu
của văn hoá nông thôn, gắn bó chặt chẽ với làng. Đình cũng là nơi thường
diễn ra hội làng - một hoạt động, mà cũng là di sản phi vật thể điển
hình của văn hoá nông thôn đó. Vì thế nên hội làng còn có tên gọi là hội
đình (như các hội đình Yên Thái ở Tạm Thương, Vũ Thạch ở Bà Triệu, Yên
Hoa ở Yên Phụ…). Việc xuất hiện và tồn tại đại trà những ngôi đình cổ và
những hội đình xưa ở Thăng Long - Hà Nội đã nói lên sự bảo lưu gốc rễ
nông thôn và văn hoá nông thôn đối với đô thị này là sâu đậm về nhiều
phương diện. Mặt khác, nhìn từ khía cạnh vận hành phong tục cổ truyền ở
Thăng Long, ta còn thấy phong tục thờ thành hoàng và tổ nghề, đã có sự
thay đổi khi thời đại đổi thay.
Ví
như dưới thời Pháp thuộc, đình ở Hà Nội có hai dạng thay đổi rất đáng
chú ý. Đó là việc thay đổi bố cục kiến trúc, để ngôi đình có thể được sử
dụng vào mục đích kinh doanh và việc cải cách sự cúng tế.
Hẳn
là xưa kia tất cả các ngôi đình ở Hà Nội đều được dựng theo kiểu kiến
trúc cổ truyền như ngày nay ta còn thấy ở đình Vũ Thạch, đình Hồ Khẩu,
đình Yên Phụ, đình Ngọc Hà, đình Đồng Nhân, đình Kim Mã...
Nhưng
tới thời Pháp thuộc, do đô thị hoá, do tấc đất ở khu trung tâm (nay ta
gọi là khu phố cổ) trở thành những tấc vàng, nên có hiện tượng là dân
một số phường thôn đã cho xây tôn đình lên thành hai hoặc ba tầng. Tầng
cao nhất còn giữ chức năng đình, với ngai thờ, hương án, câu đối, hoành
phi... Nhưng các tầng dưới thì đã được biến thành nhà ở cho ông từ, bà
đồng. Đặc biệt là tầng trệt thì đã thành nơi cho thuê làm cửa hàng, với
mục đích lấy tiền làm công quỹ, sử dụng trong việc đèn nhang cúng tế, đỡ
cho sự đóng góp của dân. Mục đích ấy nhìn chung là trong sáng. Song
cũng không loại trừ những uẩn khúc có thể còn có ở đôi nơi.
Nếu
muốn hình dung cho thật rõ diện mạo các ngôi đình Hà Nội đã được thay
đổi về công năng kiến trúc, có thể tới xem đình Yên Nội, nay là số nhà
42 Hàng Nón, đình Phúc Hậu ở số 2 Hàng Bông, đình Vĩnh Hanh ở 19b Hàng
Đường... nay đã được nâng lên thành 2 tầng. Còn tiêu biểu cho các ngôi
đình được nâng thành 3 tầng là đình Diên Hưng ở 7 Hàng Ngang, đình Đại
Lợi ở 50 Gia Ngư, đình Hoa Lộc ở 90 Hàng Đào...
Có
nơi không xây cao tầng thì thu đồ thờ gọn vào trong hậu cung, còn nhà
ngoài (đại bái cũ) thì cho thuê như đình Phương Trung ở 18 phố Đồng
Xuân. Lại có nơi cổng đình được xây dựng thành gian nhà cho thuê như
đình Yên Ninh ở 150 Phó Đức Chính. Cổng đình Đông Thành ở số 7 Hàng Vải
thời tạm chiếm (1947 - 1954) cũng được thuê, và nơi đó trở thành hiệu
nem chả Cát Tần.
Vậy
là ngay thời thuộc Pháp, các vị thành hoàng tôn kính cũng đã phải phần
nào lùi bước, nhân nhượng trước kinh tế thị trường (chúng tôi chỉ nói
tới thời Pháp thuộc, còn sau năm 1954, với tư duy vô thần, đình đền miếu
mạo thành cửa hàng, nhà kho, vườn trẻ lại là chuyện khác, không thuộc
chủ đề của chương này).
Sự
cải biến phong tục còn biểu hiện mạnh hơn trong việc cử hành cúng tế. ở
nhiều nơi trong Hà Nội, việc tiến hành tế lễ đã không còn theo đúng như
ngày lễ cổ truyền, mà lại tổ chức vào một chủ nhật gần ngày lễ ấy. Đấy
là hiện tượng đã diễn ra ở các đình Trúc Lâm - Hài Tượng (còn gọi là Tam
Lâm) và Lương Ngọc.
Đình
Trúc Lâm ở phố Hàng Hành và đình Hài Tượng ở ngõ Hài Tượng do dân ba
làng Trúc Lâm, Văn Lâm, Phong Lâm (nên mới gọi là Tam Lâm) lập ra để thờ
tổ nghề giày da. Dân các làng này lên Hà Nội làm công cho các hiệu giày
da khắp thành phố và cả trong Intendance (Hậu cần) của quân đội Pháp.
Hoàn cảnh làm việc khiến họ khó có thể nghỉ vào ngày trong tuần. Vì thế
nên dân mới phải chọn chủ nhật áp ngày lễ cổ truyền làm ngày cúng tế.
Đình Lương Ngọc ở 68 Hàng Bông do dân làng Lương Ngọc (Hải Dương) dời
lên Hà Nội lập nghiệp lập ra cũng vậy. Dân Lương Ngọc, cả thời phong
kiến lẫn thời Pháp thuộc, lên Hà Nội chủ yếu là để làm quan, quan chức
hành chính và quan coi nghề dạy học (quan đốc, quan huấn). Mà đã làm
quan thì chỉ có chủ nhật là rảnh rỗi. Cho nên ở đình Lương Ngọc cũng tổ
chức cúng tế thành hoàng vào ngày chủ nhật áp ngày lễ cổ truyền.
Trở
lên là nói về sự thu nhận, cải biến của hệ phong tục tập quán Thăng
Long - Hà Nội trên cơ sở mặt bằng không gian trong nước. Nhưng sự thu
nhận đó còn thể hiện ở chỗ, miền đất Kinh kỳ này đã “nhập cảng” được
không ít những phong tục tập quán bên ngoài nước, mà rõ nhất là những
phong tục tập quán của Bắc phương. Các phong tục tập quán ấy truyền đến
Thăng Long - Hà Nội qua nhiều loại người (những nhà du lịch, truyền
giáo, những kẻ di dân, tị nạn, những hàng binh, tù binh và đặc biệt là
những khách thương, những người di thực…) và qua tất cả các thời, nhất
là vào những thời mà lịch sử có nhiều biến động.
Ngay
từ những thế kỷ đầu trong lịch sử đô thành, ở các triều Lý Trần, nhiều
nhà sư Trung Hoa đã mang ảnh hưởng các dòng thiền, các môn phái Phật
giáo phương Bắc tới Thăng Long để tu đạo và truyền giáo, chẳng hạn như
sư Biện Tài, từ Quảng Châu đến tu ở chùa Vạn Tuế và được vua Lý Thánh
Tông mời giảng đạo. Rồi lại có Hứa Tông Đạo, đạo sĩ cuối đời Tống, đã
theo thuyền buôn đến Yên Hoa (Yên Phụ) và ở lại nơi này…
Sử
cũ còn ghi: Năm 1274, có 30 chiếc thuyền đi biển của người nhà Tống đào
vong, đem cả vợ con, của cải đến Thăng Long và được vua Trần cho định
cư ở phường Nhai Tuân, mở phố chợ, bán vóc đoạn và thuốc bắc. Những tục
lệ liên quan đến nghề y - kể cả những điều quái dị - còn theo những tù
binh trong các trận chiến chống Nguyên Mông là cha con nhà Trâu Tôn,
Trâu Canh nhập cung đình Thăng Long đời Trần. “Nghề chơi” - sân khấu
cung đình Thăng Long - cũng ở thời Trần, còn có thêm vở diễn “Tây Vương
Mẫu hiến bàn đào” do tù binh chiến tranh Lý Nguyên Cát, được thu dụng
vào nội cung, truyền bá và dàn dựng. Trò “Leo dây múa rối” nhập vào “thú
chơi” Thăng Long, cũng là do nghệ nhân Đinh Bàng Đức đưa lại từ phương
Bắc…
Sang
thế kỷ thứ XV và các thế kỷ tiếp theo, nếu sách Dư địa chí của Nguyễn
Trãi viết năm 1435 đã nói đến một phường Đường Nhân (phường của người
nhà Đường, tức người Hoa, ở chỗ phố Hàng Ngang bây giờ), nơi buôn bán
nhiều mặt hàng Trung Quốc, trong đó có “áo diệp y“,thì năm 1650, Chúa
Trịnh cũng đã qui định cụ thể cho các khách thương đến từ Phúc Kiến,
được ngụ tại các làng Thanh Trì và Khuyến Lương để giao dịch. Đến thế kỷ
XIX thì làn sóng những người phương Bắc di thực và buôn bán từ Quảng
Đông, Phúc Kiến đến cư ngụ, sinh sống ở Thăng Long - Hà Nội đã lên tới
con số hàng vạn (chiếm tỷ lệ từ 1/5 đến 1/12 thị dân kinh thành). Họ lập
ra các phố, mở các hội quán mang tên quê gốc của họ ở Trung Hoa và
trong sinh hoạt, vẫn giữ nguyên rất nhiều phong tục Bắc phương ở ngay
giữa kinh thành Thăng Long - Hà Nội, từ cách thờ cúng tổ tiên, tang ma,
cưới xin, thờ thành hoàng đến cách ăn cách mặc, cách giải trí vui chơi.
Bằng
nhiều con đường dẫn truyền như thế mà Thăng Long - Hà Nội đã thu nhận
khá sâu đậm nhiều phong tục tập quán đến từ phương Bắc. Thậm chí, nhiều
phong tục tập quán nguồn gốc Tây phương cũng thông qua kênh dẫn Bắc
phương này mà vào ngự giữa đô thị Kinh kỳ. Trường hợp người Thăng Long -
Hà Nội xưa, đi chụp ảnh ở hiệu “Cảm Hiếu Đường” là một ví dụ tiêu biểu.
Đấy là hiệu chụp ảnh đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam,
khai trương ngày 14-3-1869 ở phố Thanh Hà (cạnh Ô Quan Chưởng) do Đặng
Huy Trứ - một quan chức ngành ngoại thương của triều Nguyễn - chủ
trương. Những tưởng đây là bằng chứng rất sớm của một hình thức phong
tục văn minh từ phương Tây được nhập vào Thăng Long - Hà Nội. Nhưng kênh
dẫn trực tiếp của “phong tục đi chụp ảnh”, từ hồi giữa thế kỷ thứ XIX,
lại vẫn chính là từ phương Bắc: Đặng Huy Trứ đã mua các thiết bị chụp
ảnh từ Quảng Châu (và thuê luôn “chuyên gia” là người phương Bắc) đem về
Hà Nội! Đến cả tên “Cảm Hiếu Đường” của hiệu ảnh Thăng Long - Hà Nội
đầu tiên này cũng nói lên tính chất Bắc phương trong phong tục chụp ảnh ở
Hà Nội vào thời gian rất sớm ấy: Chụp ảnh chỉ là để làm việc hiếu, theo
hệ ý thức tư tưởng Nho giáo (tức là chỉ chụp ảnh chân dung cho cha mẹ
để thờ cúng mà thôi).
Tuy
nhiên, cũng vẫn có không ít trường hợp những ảnh hưởng của văn hoá
phương Tây, không cần phải qua kênh truyền dẫn Bắc phương, vẫn tự tìm
lấy đường vào Thăng Long - Hà Nội, để được hệ phong tục tập quán ở nơi
đây dung hợp. Ngay từ các thế kỷ thứ XVII, XVIII, việc buôn bán và
truyền đạo vào Kẻ Chợ của những lái buôn và thầy tu Anh, Pháp, Hà Lan,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… đã làm nên những đường dây trực tiếp đưa phong
tục tín ngưỡng phương Tây vào Thăng Long, mà quan trọng hơn cả là Thiên
chúa giáo. Giáo dân chối bỏ những phong tục cổ truyền, không thờ tổ tiên
nữa, bỏ bát nhang hương án, cưới xin ở nhà thờ dưới chân tượng Chúa
trời. Họ thôi không lai vãng đến chùa đền, quên Phật, quên Mẫu, chỉ biết
sáng sáng tới nhà nguyện, nhà thờ, nghe cha giảng Tân ước, Cựu ước và
kể chuyện đức Chúa Giê-su cùng các thánh tông đồ.
Ngoài
ra, sự tiếp xúc với phương Tây đặc biệt là từ đầu thế kỷ XX đã nhập vào
Hà Nội nhiều tập tục mới: về ăn uống có thêm “cơm tây” với súp, thỏ
xi-vê, ngỗng ra-gu, xúc-xích, giăm-bông, pa-tê, bí-tết ăn với bánh tây,
và rau xà-lách trộn dầu ô-liu, rồi cà-phê, bia, rượu vang, hay là “tối
rượu sâm-banh, sáng sữa bò”, nói theo cách của Tú Xương… Về trang phục
thì áo tây quần tây, com-plê, cà-vạt, mũ phớt, giày đơ-cu-lơ, nữ thì áo
tân thời, áo măng tô, áo lơ-muya, vấn tóc trần rồi phi-dê, giày mang cá,
giày muyn và phấn đắp, son tô… Rồi ở miền Bắc, phụ nữ không nhuộm răng
nữa mà để răng trắng. Các bà các cô tân tiến vứt bỏ các thứ trang phục
cũ: áo tứ thân, yếm cổ xẻ, váy lĩnh bốn, năm bức, bỏ cả tóc đuôi gà và
khăn vấn để mặc quần trắng áo dài, uốn tóc. Và đi xe đạp, phong trào này
khởi đầu từ Hà Nội để rồi sau đó lan ra các tỉnh. Nam
giới cũng vậy, các quý ông sẽ không ngần ngại cắt phăng búi tó, sẽ để
răng trắng, mặc Âu phục, đi giày “tây”, cầm ba toong, hút píp, đánh ten
nít… Một lần nữa, đây lại là những tập tục mới, xuất phát từ Hà Nội, rồi
lan ra các thành thị khác (sẽ trở lại vấn đề này ở cuối chương).
Cơ
chế tiếp nhận - cải biến - lan toả trong sự vận hành của hệ thống phong
tục tập quán thủ đô, có thể nói, còn tiếp tục tồn tại cho đến thời điểm
hiện nay. Có thể thấy rõ điều đó, chẳng hạn, trong tục đón Nô-en mà
trên kia chúng ta đã từng nói tới. Đấy là một tập quán mà người Việt Nam,
người Hà Nội đã tiếp nhận được từ các nền văn minh Cơ đốc giáo ở phương
Tây. Nhưng vào Việt Nam, và trước hết là vào Hà Nội, nó - phong tục đón
Nô-en đó - đã dần dần được cải biến, để từ một truyền thống tôn giáo
chuyển sang một hình thức sinh hoạt có ý nghĩa văn hoá - tinh thần, rồi
từ trong nội bộ hàng ngũ giáo dân, lan toả sang những giai tầng dân cư
đông đảo khác ngoài xã hội, nhất là lớp người trẻ sống giữa môi trường
của thị thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét