Thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi?
Danh nghĩa chủ
quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ ràng ít
nhất từ thế kỷ VXII. Tuy nhiên, trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của
Pháp thì một vấn đề được đặt ra là: các quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi, cho phép nảy sinh một danh
nghĩa có lợi cho một quốc gia khác, chẳng hạn như Trung Quốc?
Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này qua việc phân tích chính sách của Trung Quốc và thái độ của nước Pháp trong thời kỳ này.
Từ năm 1884 đến năm 1909, không có bằng chứng nào chứng tỏ sự quan tâm của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Chỉ có một sự kiện duy
nhất được các nhà biên niên sử ghi lại. Nội dung này khẳng định rõ,
Trung Quốc đồng ý với sự chiếm hữu của nước khác.
Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP.HCM
Ông Hoàng Việt, giảng
viên Trường Đại học luật TP.HCM thuật lại câu chuyện do P.A Lapicque ghi
lại như sau: “Năm 1895, 1896, các tàu chở đồng của phương Tây (tàu
Bellona của Đức) đi ngang qua vùng biển Hoàng Sa bị mắc cạn ở đó, rồi
bị chìm. Ngư dân Trung Quốc ùa ra “hôi” đồng. Tàu này mua bảo hiểm của
một hãng của Anh quốc. Hãng bảo hiểm đó đã đòi tiền bồi thường của chính
quyền Quảng Đông vì không đảm bảo được an ninh hàng hải. Chính quyền
Quảng Đông (Trung Quốc) đã trả lời rằng, lãnh hải đó không phải của họ
và họ không chịu trách nhiệm”.
Nội dung câu chuyện này
còn được lưu lại trong một văn thư của Phủ Toàn quyền Đông Dương (Vụ
Giám đốc các công việc chính trị và bản xứ) ngày 6.5.1921.
Rõ ràng, các nhà chức
trách địa phương, người nắm rõ nhất tình hình thực tế, đã phủ nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo này.
Tuy nhiên, kể từ năm
1909, Trung Quốc bắt đầu thay đổi thái độ của mình đối với quần đảo
Hoàng Sa. Trong năm này, Trung Quốc nói rằng đã phái một đoàn đi “thị
sát” các đảo Hoàng Sa. Theo đó, đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn theo lệnh của
Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn đưa 170 lính thuỷ đổ bộ chớp
nhoáng lên đó và gọi đó là thực hiện “quyền cai quản” của mình. Tuy
nhiên, đây là hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam vì lúc đó quần đảo
này đã thuộc Việt Nam, tuyệt đối không thể coi là việc thực hiện "chủ
quyền" của Trung Quốc.
Ngày 30 tháng 3 năm
1921, Thống đốc dân sự Quảng Đông quyết định sáp nhập các đảo Hoàng Sa
vào Nhai huyện (Hải Nam). Về sự kiện này, công sứ Pháp ở Trung Quốc
không đưa ra lời phản đối chính thức nào vì cho rằng, hành động này được
đưa ra bởi một chính phủ không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc
lẫn các nước khác thừa nhận…
Bà Monique Chemillier Gendreau
Theo bà Monique
Chemillier Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên
Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, chính các hành vi của Trung Quốc trong
năm 1895 (từ chối trách nhiệm về các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa, khẳng định
các đảo đó không thuộc Trung Quốc), rồi đến năm 1909 (đổ bộ chớp nhoáng
lên một vài đảo trong quần đảo Hoàng Sa, qua đó, khẳng định chủ quyền
của Trung Quốc) đã làm suy yếu tất cả những lời khẳng định khác về việc
chiếm đóng của nước này từ hàng thế kỷ xa xưa. Những hành vi trong năm
1909, dù có bổ sung thêm việc sáp nhập về hành chính nhưng không đủ cấu
thành một sự chiếm hữu lâu dài, thật sự, hòa bình và liên tục. Như vậy,
Trung Quốc không hội đủ các điều kiện để tạo ra một tình thế cho phép họ
phủ nhận các quyền đã có từ trước của Việt Nam.
Tháng 8/1945, theo
Quyết định Postdam giữa Liên Xô, Anh và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc được giao
tiếp nhận việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16o trở lên. Vì lý do
này, Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1946. Và cũng làm
như vậy với quần đảo Trường Sa mặc dù không được đồng minh ủy quyền. Dựa
vào sự có mặt này, năm 1947, Bộ Nội vụ của Chính phủ Trung Quốc thời kỳ
đó đã phát hành một tập bàn đồ trong đó thể hiện Trung Quốc bao gồm cả
các quần đảo này. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nước này đã có
các quyền “lịch sử” trên các đảo này. Việc chiếm đóng này là bất hợp
pháp, vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế. Tuyên bố Cairo và Quyết định
Potsdam chỉ cho phép Trung Quốc giải giáp quân đội Nhật ở quần đảo Hoàng
Sa, chứ không có nghĩa là thu hồi quần đảo này. Còn với Trường Sa, việc
giải giáp không thuộc thẩm quyền của người Trung Quốc.
Hơn nữa, theo Tiến sĩ
Sử học Nguyễn Nhã, trong giai đoạn 1884-1956, Chính phủ Pháp ở Đông
Dương đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa: “Pháp nhân danh Việt Nam với quyền là Nhà nước
bảo hộ thì đã có chủ trương rất rõ là không từ bỏ chủ quyền của An Nam ở
hai quần đảo. Người Pháp đã tích cực thực hiện, thực thi chủ quyền một
cách rất cụ thể”.
Hiệp ước Giáp Thân
(1884) là Hiệp ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận sự bảo
hộ của Pháp. Kể từ đây, Pháp thay mặt Việt Nam trong những quan hệ
ngoại giao với nước ngoài, bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngay từ năm 1898, Bộ
Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương đã đề cập đến chủ quyền trên quần
đảo Hoàng Sa. Công văn của Vụ Châu Á-Châu Đại dương của Bộ Ngoại giao
Pháp có đoạn viết: “…nhằm ngăn cản một cường quốc khác đứng trên các đảo
đó (Hoàng Sa), có lẽ có lợi ích là nên xây dựng một hải đăng trong quần
đảo này để khẳng định chủ quyền của chúng ta…”
Khi trả lời Công ty
phốt phát Bắc Kỳ về việc muốn khai thác quần đảo Hoàng Sa, ngày 17 tháng
12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng thuộc địa: “chứng
hoang tưởng tự cao, tự đại cứ tăng lên mãi của chủ nghĩa quốc gia Trung
Quốc” và đã tuyên bố rõ ràng: “vậy đã đến lúc chúng ta phải tiến lên
trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận bởi cả các tư
liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.
Theo Tiến sĩ Sử học
Nguyễn Nhã, để có chỗ dựa vững chắc cho lập trường này của Pháp, ông
Toàn quyền đã yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ cung cấp tất cả các tài liệu của
hồ sơ: “Chính quyền Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ tìm hiểu rõ vấn
đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa. Qua các tài liệu thì thấy rõ những
hành xử chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Ông Thân Trọng Huề,
Thượng thư Bộ Binh vào ngày 3.3.1925 cũng đã tuyên bố chủ quyền của An
Nam đối với Hoàng Sa là không có gì phải tranh cãi”.
Tháng 11 năm 1929,
Thượng nghị sĩ De Monzei viết thư cho Bộ trưởng Thuộc địa rằng: “các
quyền của nước An Nam, và do đó của nước Pháp, đối với quần đảo Hoàng Sa
dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVII và các đảo này là một địa
điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện để báo trước các trận
bão.”
Bức thư của Toàn quyền
Pasquier, ngày 18/10/1930 khẳng định rõ ràng hơn nữa chủ quyền của Pháp
đối với quần đảo này. Bức thư chỉ rõ, Pháp có đầy đủ hồ sơ chứng tỏ rằng
các quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc
chỉ thể hiện sự quan tâm của họ từ năm 1909.
Cần nói thêm rằng, lập
trường của Pháp khi đó là “sự thực hiện các quyền chủ quyền đã tồn tại
từ trước”. Nói cách khác, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm
giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền
hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam.
Pháp đã khẳng định các
quyền của mình bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày,
15/6/1938, quy định việc thành lập một đại lý hành chính ở quần đảo
Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và Nghị định ký ngày 5.5.1939 thành lập
hai đại lý hành chính “Cụm Lưỡi Liềm và các đảo phụ cận” và “Cụm An Vĩnh
và các đảo phụ cận”.
Những nội dung vừa phân tích chỉ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
Trường hợp quần đảo Trường Sa đơn giản hơn vì không có bất cứ một yêu sách nào của Trung Quốc trong suốt thời kỳ thuộc địa.
Ngày 23 tháng 9 năm
1930, Pháp thông báo cho các nước thứ ba biết việc nước này chiếm hữu
quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1933, việc chiếm hữu 6 đảo nhỏ đã được
tổ chức trang trọng bằng “Công bố quyền thủ đắc chiếm cứ các đảo do các
đơn vị hải quân Pháp thực hiện”. Đáp lại sự khẳng định chủ quyền đó,
Trung Quốc im lặng. Cùng năm này, Thống đốc Nam Kỳ là M. Krautheimer đã
ký một Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa…
Tuy nhiên, có một vấn
đề pháp lý được đặt ra: Trong thời kỳ Pháp thuộc, chủ quyền rõ ràng của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa liệu có bị mất đi vì không
thực thi không?
Giáo sư công pháp và
khoa học chính trị Monique Chemillier Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật
gia châu cho rằng: Không! Vì các đảo này không bị bỏ và do đó không trở
thành vô chủ. Trong lịch sử, Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố từ bỏ việc
sở hữu và quản lý các quần đảo này. Sau đó, Pháp thay mặt Việt Nam tiếp
tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Quốc gia này cũng chưa từng tuyên bố bỏ các đảo, để có thể tạo ra
một quyền cho bên thứ ba. Điều này có nghĩa là chủ quyền đã có từ xa xưa
của Việt Nam vẫn luôn được duy trì.
Giáo sư Monique
Chemillier Gendreau nói: “Xét về luật pháp quốc tế, khi một chứng thực
lịch sử đã có và giờ đặt câu hỏi liệu nó có bị mất đi trong quá trình
lịch sử hay không? Với Việt Nam, có thể khẳng định là không! Việt nam
không bị mất chứng thực chủ quyền vì chưa bao giờ thời An Nam tuyên bố
không sở hữu và quản lý các quần đảo. Mặt khác, Pháp, ở thời kỳ thuộc
địa, vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi
Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì danh
nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở
cuối thời kỳ thuộc địa.”
Đáng chú ý, trong các
tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng
quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc!
Ngay trước khi kết thúc
chiến tranh, qua Tuyên bố Cairo năm 1943, nguyên thủ của các chính phủ
Mỹ, Trung Quốc và Anh “thông báo rằng, họ trù định giành lại của Nhật
Bản tất cả các đảo ở Thái Bình Dương đã bị nước này cưỡng đoạt hay chiếm
đóng từ khi khởi sự Chiến tranh thế giới thứ nhất và trả lại Trung Hoa
dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật cướp của Trung Hoa, như là Mãn
Châu, Đài Loan và Bành Hồ và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ
khác mà Nhật đã chiếm được bằng vũ lực.”
Tất nhiên, các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa không phải là các lãnh thổ của Trung Quốc bị “cướp
đoạt”. Nếu hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thực sự thuộc chủ quyền của
Trung Quốc thì không có lý gì nước này lại chỉ đòi hoàn trả có Mãn Châu,
Đài Loan và Bành Hồ mà không đòi luôn cả Hoàng Sa, Trường Sa!
Trung Quốc là một bên
tham gia bản tuyên cáo này nên việc không nói tới các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa trong phần này của Tuyên bố Cairo năm 1943 thật đặc biệt. Nó
không phải là kết quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu cũng như
một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ này. Trung
Quốc đã buộc phải im lặng vì biết rằng, không thể bảo vệ tham vọng không
chắc chắn trước các quốc gia khác, trong đó có Pháp, quốc gia không bao
giờ công nhận cho Trung Quốc các quyền đối với các đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và trong nhiều trường hợp đã đề nghị đưa tranh chấp này ra
trước tòa án quốc tế.
Thêm nữa, năm 1951, Mỹ
và Anh đứng ra triệu tập Hội nghị San Francisco. 51 quốc gia được mời
dự. Hòa ước được ký vào ngày 8/9/1951. Theo các khoản của điều 2 của Hòa
ước, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số
lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cũng
có nghĩa là Nhật Bản trả lại chủ quyền hai quần đảo mà nước này chiếm
đóng trong giai đoạn 1939-1945 cho Việt Nam. Chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa tất yếu thuộc về Việt Nam.
Có một sự kiện đáng chú
ý liên quan đến hai quần đảo này là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại
diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể trong ngày 5/9/1951, Nhật
Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một
loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề
xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu lúc
bấy giờ cũng đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco
rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt
Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ
trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị”.
Điều này được coi như
là sự chấp nhận toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa. Bản tuyên bố này xác nhận chủ quyền đã hiện hữu, vì vậy,
nó có tác dụng đối với tất cả, ngay cả đối với những quốc gia không có
mặt tại hội nghị (Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc).
Đặc biệt, ngày
28/4/1952, khi đến lượt mình ký một hòa ước với Nhật, Trung Hoa Dân quốc
đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của Nhật đối với các đảo nhưng không
đưa vào Hiệp ước này bất kỳ yêu sách nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Nếu như khung cảnh của San Francisco ít thuận tiện để yêu
sách của họ đạt được kết quả thì một cuộc đàm phán song phương là rất
thuận lợi. Thế nhưng văn bản chỉ đề cập tới sự từ bỏ của Nhật mà không
đưa ra sự công nhận nào từ phía Nhật rằng các đảo này thuộc Trung Quốc.
Tuy nhiên, về phần
mình, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua phát ngôn của Bộ trưởng Ngoại
giao Chu Ân Lai, ngày 15/8/1951 rằng, “các đảo Tây Sa và các đảo Nam Sa
bao giờ cũng là lãnh thổ Trung Quốc”. Nhưng
cần khẳng định ngay rằng, yêu sách này không phải là sự khẳng định một
danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước cũng không phải như một quyền được
rút ra từ việc quản lý thực sự.
Trong thời kỳ này, các
đại diện của nước Việt Nam chưa thể phát biểu với tư cách như một quốc
gia. Tuy nhiên, mỗi khi phát biểu, dù vào năm 1925 (nguyên Binh bộ
Thượng thư của nhà vua), hay vào năm 1949 (Đổng lý Văn phòng của Bảo
Đại) hoặc vào năm 1951 (tại San Francisco), nội dung là giống nhau: Các
quần đảo đã thuộc Việt Nam từ lâu đời. Các quần đảo phải tiếp tục là của
Việt Nam.
Ý chí đó kết hợp với
việc Pháp liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền rõ ràng
của Việt Nam.
Vì vậy, việc còn lại là
xem xét số phận của các quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa.
Mời quý thỉnh giả quan tâm theo dõi nội dung này trong chương trình
ngày mai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét