Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

"Cô Bống" Hồng Nhung khen Hoàng Quyên, thán phục Bảo Trâm

“Hai người có điểm giống nhau là lên sân khấu thể hiện bản lĩnh người nghệ sỹ rất cao. Hoàng Quyên có kỹ thuật tốt và hát gợi cảm. Còn Bảo Trâm là một người có bản lĩnh...", Hồng Nhung nhận xét về thí sinh.
 >> Khán giả nổi giận khi Thảo My bị loại và Hương Giang ở lại

Đúng vi tinh thn đêm nhc Không tình ca ca Gala 6, hai v khách mi đc bit trong đêm công b kết qu cũng mang đến nhng bài hát v gia đình, xã hi, cuc sng ý nghĩa đ gi tng khán gi. Diva Hng Nhung th hin Papa -  mt ca khúc được ra đi bi b ba Dương Khc Linh - Thanh Bùi - Hng Nhung nm trong album Vòng tròn mi nht ca cô. Trong khi đó Đinh Mnh Ninh mang đến nhng cm nhn cuc sng đy thú v và tươi vui khi hát Hà Ni trà đá va hè, mt ca khúc do chính anh sáng tác.
Là người trc tiếp hướng dn các thí sinh trong Gala 6, Hng Nhung cũng chia s cm xúc sau đêm thi va ri. Cô đã dành lời khen ngợi cho Hoàng Quyên và Bảo Trâm bởi những sự tiến bộ của hai thí sinh này nhưng cô đã gửi tin nhắn bình chọn cho cả 6 thí sinh.
Hồng Nhung trong đêm gala 6 của Vietnam Idol
Hồng Nhung trong đêm gala 6 của Vietnam Idol
“Bi vì là người hướng dn cho các em, Hng Nhung biết th l được nhn cho c 6 người nên Hng Nhung đã mn phép vote cho tt c các bn. Nhưng nếu hi mình thích thú phn trình din nào nht thì Hng Nhung đc bit yêu thích hai bn Bo Trâm và Hoàng Quyên”, Hồng Nhung nói.
Phân tích lý do vì sao mình nhận xét như vậy, Hồng Nhung đánh giá cao Hoàng Quyên ở giọng hát và kỹ thuật điêu luyện của cô: “Hai người có đim ging nhau là lên sân khu th hin bn lĩnh người ngh s rt cao, đim khác nhau là nếu như Hoàng Quyên chn la mt bài hát v vn đ xã hi gay gt, em th hin k thut hát rt chc chn, em hát nt thp ra nt thp, nt cao ra nt cao rt chính xác và rt gi cm”.
“Vi Bo Trâm, em đã làm cho tôi rt ngc nhiên. Tôi không nghĩ ai đi thi li chn bài hát Vòng tròn, điu này chng t bn lĩnh rt cao ca em vì bài hát này không phi là bài d hát và d nghe ln đu tiên, vì vy đi thi chưa chc là d dàng. Em đã chn gai góc này cho mình đ th hin triết lý sng trong đi, em hát rt rõ li, ny tng nt mt, k thut này Hng Nhung cũng phi n. Đó là cách em đã x lý bài hát theo cách riêng ca mình đ cho bài hát có triết lý sng có c cái xu cái tt, cái hay cái d. Em đã biết t chc bài hát theo cách riêng ca mình đ cui cùng thông đip ca em đến vi mi người là: biết có hay có d nhưng tôi nhìn vào đi sng này là nhìn vào cái hay”, Hồng Nhung nói về Bảo Trâm.

NÉT VĂN HOÁ HÀ THÀNH Bốn mùa Hà Nội



Hà Nội trong tôi gần gũi và thân quen một cách lạ kì, thế mà trước đó tôi chẳng hề nhận ra. Hà Nội có hoa Phượng đỏ của đất cảng Hải Phòng, có nắng gió của thành phố Hồ Chí Minh, có nét trầm tư mơ mộng của Huế. Hà Nội hội tụ đủ tất cả những yếu tố của một thành phố vừa cổ kính, vừa hiện đại.
Hà Nội đó, rất chung nhưng cũng rất riêng với hoa Sữa ngào ngạt những ngày thu. Nhiều nơi trồng hoa Sữa, nhưng chỉ hoa Sữa Hà Nội mới cho ta cảm nhận riêng. Cái mùi ngây ngất, nồng nàn không thể lẫn vào đâu làm nên một Hà Nội chẳng giống bất cứ nơi đâu, thật nồng nàn mà cũng thật dịu dàng. Mùi hương ấy như ngấm vào lòng tôi, vào lòng bạn, để mỗi khi đi xa, ta không thể nào không nhớ đến.
Mà Hà Nội không chỉ có hoa Sữa thôi đâu. Thêm vào màu trắng tinh khiết của hoa Sữa còn có hoa Sưa, hoa Hoàng Lan đẹp lạ lùng.. .. Rồi Hà Nội còn có những hàng cây Sấu, cây Me già, cây Xà Cừ cổ thụ có hoa màu xanh nhạt, dáng cao, thẳng, tán lá rộng. Thật hiếm có nơi nào mà nhiều cây như Hà Nội và cây lại "cao tuổi" như ở Hà Nội. Dưới những tán cây đó là những quán cóc liêu xiêu, nhỏ bé rất đỗi thân quen.. ..
Yêu Hà Nội, tôi yêu cả những mặt Hồ soi bóng. Những Hồ Gươm, Hồ Tây, Hồ Thiền Quang, hồ Trúc Bạch.. ..và nhiều hồ nhỏ khác, nơi in dấu bao chứng tích oai hùng của Thăng Long -Hà Nội. Hà Nội tuy ồn ào nhưng bạn vẫn có thể  tìm thấy cho mình một góc khuất của hồ Tây, nơi chỉ có tiếng sóng xô bờ, có ánh nắng vàng, có bầu trời xanh và tiếng chim hót…
Yêu lắm một Hà Nội cổ kính trầm tư, một Hà Nội bốn mùa với những nét đẹp khác nhau, tạo nên một bức tranh đa sắc, Hà Nội từng khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều thi ca, Hà Nội như một nàng thơ đẹp đẽ của bốn mùa hoa lá. Mùa xuân Hà Nội có mưa bụi bay lất phất, làn mưa không đủ làm ướt chiếc áo mới nhưng cũng đủ mang cái không khí ấm áp về với thành phố. Những ngọn bàng mới nhú xanh non mơn mởn. Gió xuân hây hẩy, khẽ hôn nhẹ lên những đôi má ửng hồng. Đi xe trên phố mùa này sẽ thấy lòng thênh thang, rộng mở.
Đến mùa hạ, Hà Nội lại rất rực rỡ. Rực rỡ trong sắc đỏ đang lan dần trên những cành phượng, rực rỡ trong màu tím ngẩn ngơ của những hàng bằng lăng. Dòng người đi lại trên đường hối hả, vồn vã… hè ôm trọn thành phố vào trong sức trẻ đầy sắc màu của mình.
Hà Nội sang đông, cây cành khẳng khiu, lá bàng đỏ héo úa. Hà Nội không còn là cô bé mùa xuân tươi trẻ, phơi phới mà rất ngây thơ, cũng không còn là cô nàng mùa hạ đỏng đảnh, thích làm duyên. Hà Nội trầm lắng, suy tư như một người hoài cổ. Có ai đó đã viết thế này: Hà Nội mùa đông là Hà Nội nhớ về những ngày xưa. Ngày xưa Hà Nội còn vắng lắm. Những mái nhà cổ tựa trên vai của sự giá lạnh mà trầm ngâm suy nghĩ…Có cảm giác những cơn gió mùa đông lùa vào da thịt theo từng tiếng thở dài của thành phố. Nhưng mùa đông Hà Nội không lạnh giá. Vì quanh quất trong không gian là hơi ấm của …người Hà Nội.
Còn lại mùa thu. Mùa khiến cho con người say mê vì vẻ đẹp đến lạ lùng. Mỗi người một cách cảm nhận, nhất là các thi sĩ thường tìm cho mình những tín hiệu riêng để nhận biết mùa thu. Nhưng có lẽ chẳng giấy mực nào viết cho đủ, chẳng cây bút nào vẽ cho kỳ hết cái vẻ đẹp ấy. Người xưa thấy thu về trong lá ngô đồng rụng. Lưu Trọng Lư nghe thấy tiếng thu trong tiếng lá kêu xào xạc. Nguyễn Đình Thi nhận ra thu trong làn hương cốm mới. Trần Đăng Khoa biết thu về khi hoa cau rụng vào những thoáng heo may. Những câu hát về hương hoa sữa vẫn nao lòng người.
Thu về, Hà Nội đẹp trong từng góc phố của không gian và thời gian. Những con đường rợp bóng cây vương vấn hương ngọc lan quyện với chút hanh hao của cái lạnh vào thu. Sóng hồ Trúc Bạch dập dềnh như muốn góp cùng ai câu chuyện. Nước hồ Tây còn trong xanh và mênh mang cho ánh mắt ai nhìn xa xăm để tự hỏi đã bao lần đặt chân đến nơi này với người yêu dấu. Hơi nước tan trong gió hòa vào bầu không khí dịu dịu đến mát lành. Bên bờ sông Hồng, từng chiếc lá tre tung mình xoay xoay trong điệu valse trước khi hạ mình phiêu du cùng sóng nước. Có người nghĩ tiếng ngọn tre cọ vào nhau là tiếng mưa thu.
Thu Hà Nội đẹp đến nao lòng, đẹp từng con đường, hàng cây, góc phố, đẹp cả nắng vàng với gió heo may. “Mùa thu, xanh một trời Hà Nội - Em nghe thu hát ngang lưng trời - Từng con đường năm xưa, Lối ta đi qua những ngày thơ ấu..." - Thu Hà Nội mang đến những cơn gió heo may nhẹ nhàng, những làn sương khói giăng trên mặt nước Hồ Tây, những con phố tràn ngập lá vàng rơi …
Yêu mãi những con đường nhỏ, những thảm cỏ xanh rờn, những bụi cây xanh lục, và còn nữa là màu xanh sẫm của những gốc và khóm cây, tầng tầng lớp lớp, cao thấp so le nhau, thả bước trên con đường nhỏ quanh co chạy dài mà tựa như đang ngao du trong bức tranh thủy mặc.
Hà Nội đẹp đến mê đắm lòng người, ai đã từng một lần đến với Hà Nội thì có lẽ suốt đời không quên một Hà Nội thân quen, cổ kính, hiện đại, níu giữ bước chân người qua.

NÉT VĂN HOÁ HÀ THÀNH Hà Nội: Thành phố của sông,hồ



Hồ Gươm , Hà Nội
Các nền văn minh cổ đại bao giờ cũng gắn với các dòng sông, là con đẻ của các dòng sông: Văn minh sông Hoàng, văn minh sông Hằng, văn minh sông Nin và văn minh sông Hồng.
Các đô thị cổ là trái tim, là văn minh của nền văn minh cổ đại cũng gắn với các dòng sông ấy. Và tới lượt nó, các nền văn minh, các đô thị cũng mang lại cho các dòng sông một diện mạo mới, diện mạo văn hóa. Hà Nội của chúng ta. Một đô thị gần chẵn một nghìn năm của văn minh Đại Việt cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Hà Nội là đô thị của các sông hồ. Cái tên “Hà Nội” diễn nôm là thành phố “trong sông” hay các câu ca dân gian cửa miệng của người Hà Nội đã chứng tỏ điều đó:
Nhĩ Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Hay:
Khen ai khéo họa dư đồ
Trước sông Nhĩ Thủy sau hồ Hoàn Gươm
Khen ai khéo họa dư đồ
Giữa nơi thành thị có hồ trong xanh
Nói là sông hồ, nhưng thực ra với hồ Hà Nội hồ cũng là sông, vì các hồ như Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Thủ Lệ, Trúc Bạch… đều là dấu tích của các khúc sông chết, sản phẩm đôi dòng của sông Cái (sông Mẹ)
Hà Nội được dựng lên trên cái nền của bãi sa bồi của sông Hồng, nơi ngã ba sông, địa thế bằng phẳng thoáng đãng, giao thông đi lại bằng đường bộ, đường thủy thuận lợi, xứng đáng với đất trung tâm tụ hội. Chẳng thế mà trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đã coi Thăng Long là: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, ở vị trí ở giữa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc: Tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương”.
Trong cái “tứ giác nước” (như cách nói của cố GS. Trần Quốc Vượng) với phía Bắc và phái Đông là sông Nhị Hà, còn sông Tô và Kim Ngưu bao bọc phía Tây và phía Nam. Thành lũy quanh Thăng Long cũng là đê ngăn lũ. Các sông hồ không chỉ bồi phủ tạo nên các bờ bãi tốt tươi, mà còn là hệ thống giao thông, hệ thống trữ nước, cấp nước và tiêu nước cho Hà Nội. Ở các thời tiền thực dân, tức tiền công nghiệp hóa, thuyền bè là phương tiện đi lại chính trên sông, đặc biệt là sông Cái:
Lênh đênh ba mũi thuyền kề
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu
Hay:
 Ai về Hà Nội, ngược nước Nhị Hà
Buồm giăng ba ngọn vui đà vui thay
Con sông Tô Lịch thời đó trong xanh, không bị thu hẹp dòng và ô nhiễm như bây giờ, còn là nơi vua quan, thị dân du thuyền xuôi ngược:
Sông Tô nước chảy trong ngần
Cơn thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Cấu trúc Thăng Long thời trung cổ là điển hình cho kiểu thành thị phong kiến, trong đó thành là nơi định đô với thành quách cung điện, nơi ở của vua quan; còn ngoài thành là “thị” với bến sông chợ búa, nơi sinh sống và buôn bán của thị dân. Ngày nay dấu tích các chợ còn lại khá rõ ở các cửa thành, như chợ Cửa Nam, chợ Cửa Bắc (nay là chợ Châu Long), chợ Cửa Tây (nay là chợ Ngọc Hà), chợ Cửa Đông (gần chợ Đồng Xuân).

Ngày nay với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, Hà Nội không còn bó gọn trong cái “tứ giác nước” đó nữa mà đã vượt ra ngoài, không còn là thành phố “một bên sông”, thành phố “trong sông” nữa mà đang mở rộng sang cả hai bờ, ôm gọn cả khúc sông Hồng vào lòng.
Sông Hồng đã tạo nên vị thế và diện mạo của Hà Nội, một vị thế và diện mạo có một không hai ở nước ta. Tuy nhiên Hà Nội, con người Hà Nội đã khoác lên các sông hồ nơi đây một diện mạo mới, diện mạo văn hóa. Có thể nói, mỗi khúc sông nhánh hồ của thành phố đều thấm đậm các huyền tích, truyền thuyết, dấu ấn lịch sử, khiến nó trở nên lung linh, huyền ảo, ẩn chứa hồn núi sông:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
(Nguyễn Đình Thi)
Sông Hồng, khúc chảy qua Hà Nội, đã từng chứng kiến các sự kiện  hào hùng của dân tộc chống giặc ngoại xâm với các di tích Tây Kết thời Lê Hoàn chống Tống, Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp…trong chiến thắng Nguyên Mông, Xuân 1285:
Đoạt giáo Chương Dương độ, cầm hồ Hàm Tử quan
(Trần Quang Khải)
Đây cũng là đoạn sông với sự ẩn hiện các thủy thần. Nằm trong hệ thống trấn thủy thần núi Ba Vì- Sơn Tinh, vị thần bảo trợ cho  kinh thành Thăng Long. Huyền thoại Lý Ông Trọng chém mãng xà cứu mẹ ở khúc sông đình Chèm, gắn với lễ hội đình Chèm hàng năm vào tháng Giêng. Với hệ thống tín ngưỡng “trấn thủy” này còn có cả các huyền thoại diệt thuỷ quái trên sông Tô Lịch ở góc thành phía Tây Thập Tam Trại, kéo dài sang tận vùng Lệ Mật (Nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên) với truyền thuyết chàng trai họ Hoàng chém rắn cứu công chúa nhà Lý. Cũng nằm trong hệ thống Thập Tam Trại xưa, làng Thủ Lệ ngay sát kinh thành xưa, lại thờ thần  Linh Lang phun nước làm mưa, được dân làng Thủ Lệ tôn thờ, là một trong Tứ Trấn của kinh thành Thăng Long.
Đẹp hơn cả vẫn là huyền thoại Chử Đồng Tử - Tiên Dung, một mối tình mang đầy chất tự nhiên, làm thơ mộng cả một dải sông Hồng phía Nam Hà Nội, để lại ven sông không chỉ là những đình đền thờ cúng các vị thần mà còn là các nghi lễ, lễ hội, phong tục.
Phong phú không kém là hệ thống các huyền thoại, truyền thuyết và di tích ven các hồ trong lòng Hà Nội. Ai cũng biết hồ Hoàn Kiếm là biểu tượng thiêng liêng của người Hà Nội, nơi có Tháp Rùa lung linh soi bóng ngàn đời đáy nước, ghi dấu huyền thoại Lê Thái Tổ, người sáng nghiệp nhà Lê trả gươm thần cho Rùa vàng, đền Ngọc Sơn, tượng Vua Lê, nay thêm tượng Lý Công Uẩn, người sáng lậpThăng Long- Hà Nội…
Hồ Tây là một hồ lớn, xưa ở phía Tây kinh thành, dấu tích của sông Cái đổi dòng, nay con hồ này đã nằm gọn trong lòng Hà Nội. Cả một hệ thống huyền thoại, di tích, lễ hội đày đặc quanh Hồ Tây (còn gọi là hồ Dâm Đàm), mà tác phẩm “Tây Hồ chí” được viết từ cuối thế kỷ XIX đã mô tả chi tiết. Các huyền thoại về Trâu Vàng (Kim Ngưu) về Hồ Tinh, huyền thoại  về chó mẹ trên lưng mang chữ Vương, từ bên kia sông Cái bơi về lót ổ đẻ Cẩu Nhi  (chó con) ở Trúc Bạch, một nhánh Tây Hồ, đánh dấu điềm lành khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Đại La, khai sinh thành Thăng Long nghìn năm. Huyền thoại về Bà Chúa Liễu Hạnh gặp gỡ và đàm thoại văn thơ với nhà thơ Phùng Khắc Khoan, do vậy đã để lại cho Hà Nội đời sau một phủ Tây Hồ linh thiêng, huyền ảo. Gắn với huyền thoại là các di tích đình, đền, chùa và lễ hội quanh Hồ Tây như đền Quán Thánh, di tích của Đạo giáo, chùa Trấn Quốc, ngôi chùa thuộc loại cổ nhất, nơi vua chúa xưa đi lễ chùa, chùa Kim Liên, Quảng Bá, đình Yên Phụ, đền Kim Ngưu, phủ Tây Hồ.
Có một cái hồ vốn xưa kia nằm ở ngoại thành Hà Nội, nhưng nay ven hồ đã mọc lên một khu chung cư, đó là hồ Linh Đàm (Đầm Mực). Truyền rằng đây là nơi trú ngụ của Thần Lâm Đàm (thần Rồng), đã từng hóa thân thành cậu học trò theo học thầy Chu Văn An. Gặp năm trời hạn hán, vì thương xót dân, Thần hút mực trong các nghiên bút, phun lên trời cầu mưa, giúp người trừ hạn  hán, làm cả mặt hồ đen ngòm như mực, do vậy mà bị Thiên Đình tức giận trị tội chết. Người dân nơi đây nhớ ơn, lập đền thờ Thần.
Làm sao mà kể hết các huyền thoại, di tích, lễ hội, phong tục gắn với sông hồ của Hà Nội, tạo nên một Thăng Long- Hà Nội thấm đậm tinh thần lịch sử và tâm linh. Ở đây thiên nhiên và văn hóa, con người và môi trường đã hòa với nhau làm một, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên- địa- nhân, một bản sắc văn hóa của Việt Nam nói riêng và của phương Đông nói chung.
Thăng Long Hà Nội nghìn năm đã hình thành nên những giá trị và bản sắc, nay đứng trước xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang bị vỡ ra để tái cấu trúc thành Hà Nội thời đại Hồ Chí Minh, có hàng loạt vấn đề đang đặt ra giữa kiến trúc đô thị và môi trường.
Hà Nội đã mở rộng và hiện đại hơn, nhưng các sông hồ thì có bị bồi lấp, thu hẹp và ô nhiễm. Hà Nội có còn giữa được sự hài hòa giữa kiến trúc hiện đại với sự hiền hòa, tươi mát của các dòng sông, mặt hồ?
Chắc chắn trong tương lai Hà Nội sẽ có cơ sở vật chất khang trang, có “nhà cao cửa rộng” nhưng có còn giữ được cái hồn của những huyền thoại, truyền thuyết lịch sử lung linh? Nói một cách tổng quan hơn: Hà Nội có còn là đô thị của sông hồ?  

Đột tử ở bãi biển

Đột tử ở bãi biển. Tối 22.12 tại bãi biển đường Hoàng Sa, thuộc P.Mân Thái, Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng diễn ra một đám cưới của người dân địa phương.



Tối 22.12 tại bãi biển đường Hoàng Sa, thuộc P.Mân Thái, Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng diễn ra một đám cưới của người dân địa phương.

Thấy ca nhạc đông vui, bà Trần Thị Lan (49 tuổi, trú gần đó) liền đến vỉa hè đường Hoàng Sa để xem.
Đột tử ở bãi biển
Vỉa hè đường Hoàng Sa ven biển P.Mân Thái, nơi bà Lan đột tử
Đến khoảng 20 giờ, bà Lan ra về, vừa bước vài bước liền ngã xuống vỉa hè, người dân xung quanh phát hiện đã đưa bà đi cấp cứu nhưng nạn nhân tử vong trên đường nhập viện.
Công an P.Mân Thái, Trung tâm Pháp y cùng Ban quản lý bán đảo Sơn Trà và các biển du lịch TP.Đà Nẵng đang tiến hành làm rõ vụ việc.

Điện giật, một ngư dân tử vong

Trong lúc cùng các ngư dân đang đánh bắt cá tại khu vực quần đảo Trường sa, một ngư dân tỉnh Bình Định đã bị nguồn điện trên tàu giật dẫn đến tử vong. Vụ tai nạn xảy ra ngày 20/12/2012.
Nạn nhân là anh Nguyễn Văn Hân (26 tuổi, ngụ ở xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa).
Theo lời các ngư dân, trước đó, vào khoảng 2 giờ ngày 20/12, tàu cá BĐ 96011-TS, đi trên tàu có 9 ngư dân đang hoạt động đánh bắt thủy sản tại khu vực gần quần đảo Trường Sa thì anh Hân bị nguồn điện trên tàu giật chết ngay tại chỗ.
Ngay sau sự cố, thuyền trưởng tàu này đã lập tức cho tàu chạy về đất liền để làm thủ tục mai táng.
Đến chiều ngày 22/12, tàu cá BĐ 96011-TS đã cập Bến Hàm Tử, thuộc phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn (Bình Định) để đưa thi thể nạn nhân vào bờ khâm liệm và đưa về quê nhà mai táng.
Vụ việc tiếp tục được các cơ quan chức năng điều tra làm rõ.

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

TQ và yêu sách về Biển Hoa Đông


Ngày 14.12.2012 Trung Quốc đã đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ yêu sách thềm lục địa của họ trên Biển Hoa Đông. Về vấn đề này, xin giới thiệu góc nhìn của ông Dương Danh Huy, nhà nghiên cứu về Biển Đông hiện đang sống tại Oxford, (Anh) trong bài viết đăng trên BBC như một tài liệu tham khảo.
Cũng gần như Biển Đông, Hoa Đông là một vùng biển có nhiều tranh chấp. Về phía Nam là tranh chấp giữa Nhật, Trung Quốc và Đài Loan về quần đảo với tên tiếng Trung là Điếu Ngư và tên tiếng Nhật là Senkaku.
Về phía Bắc, ranh giới giữa Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc chưa được phân định. Ở giữa Nam và Bắc là tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Nhật và Trung Quốc.
Trong khu vực giữa Nam và Bắc này, chuỗi đảo Lưu Cầu của Nhật nằm cách đất liền và các đảo ven bờ Trung Quốc từ khoảng 320 đến khoảng 400 hải lý.

Cơ sở pháp lý

Nhật cho rằng ranh giới giữa hai nước phải là đường trung tuyến, cách đều hai nước từ khoảng 160 đến khoảng 200 hải lý.
Ngược lại, Trung Quốc dùng lập luận đáy biển trong khu vực này là sự kéo dài tự nhiên của đất liền Trung Quốc để cho rằng thềm lục địa của họ ra xa hơn đường tuyến. Nhưng trước đây Trung Quốc chưa tuyên bố ranh giới cụ thể cho yêu sách của họ.
 alt
Trung Quốc đòi thềm lục địa (đường vàng) tới sát Lưu Cầu của Nhật (Nguồn: CLCS)

Với đệ trình ngày 14/12/2012, Trung Quốc đã vận dụng một số điều khoản của UNCLOS về thềm lục địa mở rộng để biện minh cho việc đòi thềm lục địa ra tới đường nối một số điểm sâu nhất của Rãnh Okinawa.
Với đường nối đường nối các điểm sâu nhất đó, Trung Quốc đòi thềm lục địa ra đến từ khoảng 290 đến khoảng 340 hải lý, tức là khoảng 85% vùng đáy biển giữa Trung Quốc và Lưu Cầu, hoàn toàn bỏ qua các quyền lợi của Nhật.
Tuy nhiên, lập luận của Trung Quốc là không phù hợp với luật quốc tế.
Theo án lệ của các phiên tòa quốc tế thì khi vùng biển giữa hai quốc gia không rộng hơn 400 hải lý thì việc phân định không dựa vào sự kéo dài tự nhiên của đất liền hay địa lý đáy biển, mà chỉ dựa vào đất liền và đảo, các đảo nhỏ có thể bị bỏ qua hoặc chỉ được tính một phần hiệu lực.
Vì chuỗi đảo Lưu Cầu có nhiều đảo lớn, khó có thể bỏ qua hoặc chỉ được tính một phần hiệu lực, lập luận của Nhật có vẻ phù hợp với luật quốc tế hơn. Về sức mạnh thì Trung Quốc cũng khó lấn lướt được Nhật.

Thực tế áp dụng

Trên thực tế, khi Trung Quốc và Nhật thỏa thuận khai thác chung trong vùng tranh chấp này thì đối tượng khai thác chung, tức là mỏ khí đốt Chunxiao/Shirakaba, nằm vắt ngang đường trung tuyến.
Như vậy thỏa thuận khai thác chung đó đã dựa theo quan điểm của Nhật về ranh giới, trong khi quan điểm của Trung Quốc đòi thềm lục địa tới Rãnh Okinawa đã không có vai trò gì.
Nếu Nhật, và có thể cả Hàn Quốc, phản đối, Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa có thể khước từ không xét đệ trình của Trung Quốc. Trong trường hợp Ủy ban có xét đi nữa, Ủy ban cũng không có thẩm quyền để phân định vùng nào là của Trung Quốc, vùng nào là của Nhật.
 alt
Bản đệ trình vẽ Senkaku / Điếu Ngư là của Trung Quốc (Nguồn: CLCS)

Về phía Nam, Trung Quốc cũng vẽ các đảo thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư như các điểm cơ sở của họ, và các đường cơ sở thẳng họ tuyên bố cho quần đảo này năm nay.
Như vậy, Trung Quốc cũng dùng đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa như một cơ hội để khẳng định chủ quyền trên quần đảo này, mặc dù Ủy ban không có thẩm quyền để phán xét gì về vấn đề đó.
Tóm lại, đệ trình của Trung Quốc chỉ có giá trị chính thức hóa yêu sách của họ về thềm lục địa và là một cơ hội để tuyên bố về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, chứ không có giá trị pháp lý để hợp pháp hóa các yêu sách đó.
Việc Trung Quốc chính thức hóa yêu sách của họ về thềm lục địa cũng có giá trị nào đó trong tranh cãi pháp lý, mặc dù lập luận của họ vẫn là không hợp lý, nhưng có lẽ đệ trình này chủ yếu là một động thái chính trị trong bối cảnh căng thẳng Trung-Nhật nhằm gây sức ép lên Nhật, cũng như nhằm thỏa mãn tinh thần dân tộc trong nước.
Nhưng đệ trình này cũng cho thấy sự bất cập trong cách Trung Quốc vận dụng luật quốc tế.
Tại Biển Hoa Đông thì Trung Quốc vận dụng UNCLOS một cách một chiều, bỏ qua các án lệ của các phiên tòa quốc tế, để đòi 85% diện tích thềm lục địa giữa Trung Quốc và chuỗi đảo Lưu Cầu của Nhật.
Tại Biển Đông thì Trung Quốc cũng bỏ qua các án lệ của các phiên tòa quốc tế, còn UNCLOS thì có khi họ bỏ qua, có khi họ vận dụng Công ước đó một cách một chiều.

Nghi ngại trước tham vọng biển của Trung Quốc


Thế kỷ 21 là thế kỷ của đại dương, các quốc gia có biển đều quan tâm nghiên cứu phát triển chiến lược nhằm khai thác nguồn lợi từ biển.

Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã xác định phải “lấy phát triển kinh tế biển làm trung tâm”. Cũng từ đó, kinh tế biển của Trung Quốc luôn phát triển với tốc độ cao hơn tốc độ phát triển bình quân của kinh tế quốc gia.
Trong quy hoạch 5 năm được công bố năm 2010, Trung Quốc đã đẩy mạnh thêm một bước chiến lược phát triển kinh tế biển khi công bố “phương châm trăm chữ” về định hướng phát triển kinh tế biển một cách toàn diện trong tương lai. 
Phương châm này chủ trương: Quy hoạch cả trên đất liền và biển; hoạch định và thực thi phương hướng chiến lược phát triển biển, nâng cao năng lực phát triển, kiểm soát và quản lý biển toàn diện; quy hoạch khoa học các ngành kinh tế biển, phát triển dấu khí biển, vận tải biển, nghề cá biển…; phát triển và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên biển, tăng cường xây dựng các cảng cá, bảo vệ hải đảo, dải bờ biển và môi trường sinh thái biển; đảm bảo an ninh vận tải biển, bảo vệ quyền và lợi ích biển.
Trong báo cáo tại Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 8.11 vừa qua, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào  khi đó cũng chỉ rõ mục tiêu lớn của Trung Quốc là phải trở thành “một cường quốc biển” trong tương lai. “Chúng ta cần phải nâng cao năng lực khai thác nguồn tài nguyên biển, kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích biển quốc gia, xây dựng cường quốc biển”, ông Hồ Cẩm Đào nói.
Báo cáo cũng xác định mục tiêu vĩ mô về phát triển sự nghiệp hải dương của Trung Quốc, đồng thời vạch ra các phương hướng tiến lên của Trung Quốc trong lĩnh vực biển.
Theo lập luận của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nếu tính theo chỉ số tài nguyên bình quân đầu người, Trung Quốc là nước “đất rộng nhưng tài nguyên không rộng”. Nguồn tài nguyên nước ngọt theo đầu người của nước này chỉ bằng 1/4 trung bình của thế giới. Trong số 45 loại khoáng sản thiết yếu cho phát triển kinh tế quốc dân thì có tới một nửa không đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Tài nguyên dầu khí trong đất liền cũng được xác định sẽ cạn kiệt trong vài năm tới nếu tiếp tục duy trì tốc độ khai thác hiện nay. Trong khi đó, khó khăn về thiếu hụt năng lượng, đặc biệt là điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, vẫn chưa có giải pháp thực sự đột phá.
Vì vậy, xét về lâu dài, kinh tế biển đối với Trung Quốc không gì thay thế được. Trung Quốc xác định biển là kho báu tài nguyên lớn hơn đất liền nhưng khai thác chưa nhiều.
Thông qua phát triển kinh tế biển, Trung Quốc có thể bù đắp khoản nước ngọt thiếu hụt, sử dụng thủy triều và các dòng hải lưu để phát điện, đồng thời tăng cường khai thác hợp lý các tài nguyên khoáng sản biển như dầu mỏ, khí đốt, băng cháy, kim loại nặng và các nguồn hải sản.
Phát triển kinh tế biển sẽ trở thành điểm đỡ quan trọng giúp quốc gia đông dân nhất thế giới (hơn 1,3 tỷ người) khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn lực cho phát triển. Kinh tế biển trở thành một phần sinh lực cốt yếu nâng cao sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế hiện đứng thứ hai thế giới.
 Tham vọng biển của Trung Quốc là nguyên nhân gây gia tăng tranh chấp
Với việc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc đã tích lũy được một tiềm lực kinh tế và quân sự khổng lồ.
Xuất phát từ nhu cầu đối với tài nguyên, đặc biệt là nhiên liệu và mở rộng phạm vi ảnh hưởng, chiến lược biển của Trung Quốc không chỉ tập trung vào các vùng biển xung quanh như Biển Đông hay Hoa Đông mà còn vươn tới tận Nam Cực, Bắc Băng dương trên bề rộng và tới cả những vùng biển sâu còn chứa đựng nhiều bí ẩn.
Tham vọng của Trung Quốc cộng với sự tự tin quá đáng về sức mạnh đã thúc đẩy nước này có những bước đi lấn lướt trên biển, bất chấp luật pháp.
 alt
Đường lưỡi bò tham lam bao chiếm hầu hết Biển Đông
  
“Trung Quốc vừa có nhiệm vụ to lớn bảo vệ các quyền lợi biển trong phạm vi quản lý, vừa có nhu cầu cấp thiết bảo vệ lợi ích biển tại các vùng biển ngoài phạm vi này”, ông Lý Cảnh Quang, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế của Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc, nêu trong bài viết “Nội hàm phong phú quyền lợi biển của Trung Quốc” đăng trên trang Web của Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc.
 “Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo trong đường đứt khúc 9 đoạn và vùng biển phụ cận của nó được đánh dấu trên bản đồ, đồng thời được hưởng quyền lợi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong phạm vi 200 hải lý tính từ đường đứt khúc”, ông Lý Quang Cảnh viết.
Không chỉ thế, tác giả bài viết còn nêu yêu sách đòi lợi ích biển cả ở những vùng biển xa. “Quyền lợi biển quốc gia bao gồm hai hàm nghĩa. Một là các quyền lợi mà nhà nước có thể sử dụng trên biển và hai là, lợi ích có thể giành được và lợi ích cần được bảo vệ”, ông Lý Cảnh Quang viết.
Hàm nghĩa thứ hai ở đây ám chỉ việc Trung Quốc cũng có quyền bảo vệ các quyền lợi biển ngoài phạm vi quản lý, như các vùng biển quốc tế, vùng đáy biển quốc tế, Nam Cực và Bắc Cực. 
Có lẽ do xuất phát từ quan điểm này, thời gian qua Trung Quốc đã không ngừng đẩy mạnh các hoạt động tại những vùng biển không thuộc phạm vi quản lý. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Bắc Kinh còn tiến thêm một bước khi tìm cách hợp thức hóa vùng biển của nước khác thành biển của mình. Việc Trung Quốc cho in bản đồ có hình đường “lưỡi bò” trên mẫu hộ chiếu mới và thành lập “thành phố Tam Sa” vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam là những ví dụ điển hình.
Theo quy định của UNCLOS, các quốc gia ven biển có quyền hoạch định vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa phù hợp với các quy định đề ra trong UNCLOS và luật pháp liên quan như “Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”, “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp”. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để các nước xác lập các vùng biển thuộc phạm vi quản lý và đặc quyền quốc gia, từ đó khoanh vùng không gian và nguồn tài nguyên biển được phép khai thác, sử dụng. Là quốc gia kí công ước này, song Trung Quốc lại hành động bất chấp các ràng buộc của công ước, gây xung đột với hầu hết các nước có vùng biển chung với họ.
Trung Quốc tìm cách thay đổi nguyên trạng trên biển
Dư luận lưu ý điểm nổi bật nhất của Trung Quốc trong tranh chấp biển đảo hiện nay là tìm cách “thay đổi nguyên trạng”, nói cách khác là “biến không thành có”.
 alt
Tàu hải giám Trung Quốc áp sát quần đảo Điếu Ngư/Senkaku tháng 9.2012 ( Ảnh Internet)

Theo giáo sư Mỹ M. Taylor Fravel, trong các vụ tranh chấp với Philippines và Nhật Bản, Bắc Kinh đã sử dụng sự hiện diện của các cơ quan dân sự thực thi pháp luật để tạo ra các tình huống mới trên biển nhằm củng cố tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Trước tháng 4.2012, cả Trung Quốc lẫn Philippines đều không duy trì một sự hiện diện thường trực tại bãi đá ngầm Scarborough. Ngư dân của Philippines, Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc vẫn hoạt động trong và xung quanh các rạn san hô lớn. Trong quá khứ, đặc biệt là vào cuối năm 1990 và đầu những năm 2000, Hải quân Philippines đã bắt giữ ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở bên trong bãi đá ngầm Scarborough. Kể từ đó, lực lượng tuần tra Trung Quốc đã đến bãi đá ngầm Scarborough, nhưng không nỗ lực kiểm soát thực sự bãi đá ngầm này cũng như vùng biển xung quanh.
Tình hình đã thay đổi sau khi có sự đối đầu liên quan đến chủ quyền đối với bãi đá ngầm Scarborough. Tranh chấp bắt đầu vào tháng 4/2012, khi Hải quân Philippines tìm cách bắt giữ ngư dân Trung Quốc đang hoạt động ở khu vực đầm phá này. Sau khi nhận được tín hiệu cấp cứu, hai tàu Hải giám Trung Quốc (CMS) đã  đến hiện trường, chặn lối vào đầm phá và không cho bắt giữ ngư dân Trung Quốc. Sau khi các tàu đánh cá rời khỏi khu vực, tàu công vụ của cả hai bên vẫn ở lại để bảo vệ tuyên bố chủ quyền đối với bãi đã ngầm Scarborough. Đến cuối tháng 5, Trung Quốc đã triển khai ở khu vực này tới 7 tàu Hải giám và Ngư chính.
Vào đầu tháng 6, phía Philippines thông báo đã đạt được một thỏa thuận với Trung Quốc, trong đó qui định hai bên cùng rút hết tàu khỏi khu vực tranh chấp. Mặc dù Trung Quốc không bao giờ công khai xác nhận sự tồn tại của thỏa thuận như vậy, hồi giữa tháng 6, tàu của cả hai bên đều đã rút khỏi vùng biển Scarborough, khi một cơn  bão đang đến gần. Tuy nhiên, sau đó, tàu Trung Quốc đã quay trở lại và kể từ đó, duy trì một sự hiện diện thường trực tại các vùng biển quanh bãi đá ngầm. Trung Quốc cũng đã chăng dây chắn lối duy nhất vào bên trong bãi đá ngầm Scarborough.
Trước khi xảy ra đối đầu, Trung Quốc không hề có sự hiện diện thường trực tại bãi đá ngầm Scarborough. Ba tháng sau, Trung Quốc đã kiểm soát trên thực tế bãi đá ngầm này và các vùng biển xung quanh, qua đó làm thay đổi nguyên trạng theo hướng có lợi cho mình. Trong  một bài xã luận, tờ Thời báo Hoàn cầu khẳng định Trung Quốc “đã củng cố kiểm soát trực tiếp” bãi đá ngầm này.
Một động thái tương tự đang diễn ra ở Biển Hoa Đông, liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Trước khi chính phủ Nhật “quốc hữu hóa” ba trong số các đảo nhỏ của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trong tháng 9.2012, tàu công vụ Trung Quốc đã tránh đi vào giới hạn 12 hải lý của lãnh hải xung quanh các đảo của Nhật Bản. Dường như, Trung Quốc và Nhật Bản đã có  một thỏa thuận ngầm từ giữa những năm 2000 về việc hạn chế sự hiện diện của tàu và công dân gần các hòn đảo nói trên, trong một nỗ lực tránh xung đột leo thang.
Hồi tháng 9.2010, vụ bắt giữ một thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc xâm phạm giới hạn 12 hải lý và sau đó đâm vào tàu tuần duyên Nhật Bản đã gây ra một cuộc khủng hoảng trong quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản. Một trong số các phản ứng của Trung Quốc là tăng số lượng các vụ tuần tra, do các tàu Hải giám và Ngư chính thực hiện, ở các vùng biển gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Khi đó, các tàu công vụ Trung Quốc chỉ hoạt động ở vùng biển giáp ranh lãnh hải Nhật Bản và đôi khi chỉ xâm phạm trong một thời gian ngắn ngủi. Trên thực tế, phía Trung Quốc đã chấp nhận sự kiểm soát của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và các vùng biển xung quanh (theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển).
Tuy nhiên, sau khi Nhật Bản “quốc hữu hóa” ba trong số các hòn đảo của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc đã từ bỏ cách tiếp cận này. Thứ nhất, Trung Quốc đã ban hành đường cơ sở để đòi hỏi chủ quyền đối với các vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và sau đó bắt đầu tiến hành tuần tra gần như hàng ngày trong những vùng biển mới được tuyên bố chủ quyền, trực tiếp thách thức sự kiểm soát của Nhật Bản. Các cuộc tuần tra này nhằm hai mục đích: để chứng minh rằng việc Nhật Bản mua lại các hòn đảo sẽ không ảnh hưởng đến các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và thách thức quan điểm của Nhật Bản là không có tranh chấp về chủ quyền các hòn đảo nói trên.
Mặc dù không kiểm soát các vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku, Trung Quốc hiện không còn chấp nhận sự kiểm soát trên thực tế của Nhật Bản. Ngày 31.10, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định rằng một hiện trạng mới đã được tạo ra. Sau khi mô tả các vụ tuần tra của Trung Quốc là "thường xuyên", phát ngôn viên Hồng Lỗi nói rằng "phía Nhật Bản phải đối mặt với  thực tế rằng một sự thay đổi cơ bản đã xảy ra ở quần đảo Điếu Ngư".
Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh đều hậu thuẫn cho những yêu sách bằng sự hiện diện cơ bắp nhằm củng cố lập trường của Trung Quốc và ngăn chặn mọi thách thức hơn nữa của đối phương. Những phản ứng này cho thấy Trung Quốc sẵn sàng hành động đơn phương để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền của nước này. 
Về con đường chinh phục đai dương, mở rộng tầm ảnh hưởng trên biển của Trung Quốc, chuyên gia về châu Á của viện CERI, Thierry Aube nhắc lại thời sự nóng bỏng và căng thẳng tại vùng Biển Đông. Ông nhấn mạnh đến lối hành xử của Trung Quốc, bắt nạt các nước bé :
« Trung Quốc thường khiến mọi người ‘khiếp sợ’. Đó là một sự thật có phần đúng và có phần không đúng. Nhưng nếu nhìn đến chiến lược bành trướng trên biển của Bắc Kinh, đặc biệt đối với các nước lân cận ở khu vực Biển Đông thì thái độ của Trung Quốc khiến chúng ta phải nêu lên nhiều nghi vấn và cần thận trọng : Trung Quốc không hề bị lương tâm cắn rứt khi khẳng định chủ quyền đối với cả một vùng biển rộng lớn. Trung Quốc cũng không ngần ngại uy hiếp các nước nhỏ trong khu vực. Bài học và kinh nghiệm qua cuộc tranh chấp ở Biển Đông bắt buộc chúng ta phải cân nhắc kỹ hơn về những ý đồ và tham vọng của Trung Quốc đối với vùng Bắc Băng Dương, đối với vùng đất Groenland ».

NÉT VĂN HOÁ HÀ THÀNH Văn hóa ứng xử Người Hà Nội



Nếu giao tiếp là thường xuyên ở bất cứ thời gian nào, và thường trực trong bất cứ một không gian lịch sử và xã hội nào, thì văn hoá giao tiếp lại là sản phẩm của từng lúc, từng nơi. Văn hoá giao tiếp phụ thuộc, đồng thời cũng phản ánh và thậm chí tác động trở lại với rất nhiều điều kiện và hoàn cảnh xã hội, kinh tế, tự nhiên cũng như từng cá nhân và năm tháng nữa. Do đó mới có văn hoá vùng, miền, địa phương, cá nhân, cũng như có văn hoá nông thôn, đô thị, có văn hoá quý tộc và bình dân...
Dù chỉ là một khía cạnh của văn hoá nói chung song văn hoá giao tiếp cũng là cả một lĩnh vực tổ hợp của nhiều yếu tố: ăn, mặc, nói năng, ứng xử... Nói về văn hoá giao tiếp của mình người Hà Nội chỉ gói gọn trong hai chữ Thanh và Lịch: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An Chỉ bằng một câu nói ví von ngắn gọn, nhã nhặn, nhún nhường vậy thôi cũng đã cho ta thấy cái lịch lãm, tế nhị, tự tin của người Hà Nội. Những con người sống trên mảnh đất là nơi hội tụ, tích hợp các luồng văn hoá, để rồi thẩm thấu, chắt lọc và toả sáng. Đây cũng đồng thời là nơi tập hợp các danh nhân văn hoá, các tao nhân mặc khách ở mọi thời đại và mọi thế hệ. Chính những yếu tố đó làm nên văn hoá Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội - mảnh đất ngàn năm văn hiến, thì thử hỏi làm sao người Hà Nội không thanh lịch cho được. Sự thanh lịch ấy thể hiện trước hết ở lời nói: Người thanh tiếng nói cũng thanh Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu
Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội là ở chỗ chuẩn xác, phát âm đúng, mẫu mực cho cả nước. Kẻ Chợ là nơi hội tụ người tứ xứ, do đó cũng là nơi chung đúc tiếng nói của bốn phương, rồi qua sàng lọc tự nhiên đã lắng đọng những gì tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất, hợp lý nhất. Cái thanh lịch của người Hà Nội còn thể hiện trong giao tiếp xã hội. Người Hà Nội với vốn từ giàu có, lại biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ, hợp cảnh, hợp tình, tạo nên một phong cách riêng không pha trộn vừa hào hoa, nhã nhặn, vừa lịch lãm nhún nhường. Trong quan hệ với bạn bè, khách khứa, người Hà Nội bao giờ cũng có một thái độ hiếu khách truyền thống, nồng nhiệt mà không thô bạo, niềm nở mà không suồng sã. Khi khách đến nhà, người chủ dù bận việc cũng phải đứng dậy mời chào. Nếu đang mặc quần áo ngắn, quần cộc, áo cánh thì phải “xin lỗi” khách, mà mặc quần áo dài nghiêm chỉnh rồi mới tiếp khách. Trong cách pha trà đãi khách của người Hà Nội cũng thể hiện trình độ và sự tinh tế riêng. Chè để đãi khách bao giờ cũng là chè ngon, có nhà cẩn thận còn đem ướp sen, nhài hay hoa ngâu để tăng thêm hương vị.
Trong ăn uống của người Hà Nội cũng có những nét khác biệt và thể hiện một trình độ thẩm mỹ hay nói đúng hơn là năng khiếu trong việc chế biến món ăn. Chỉ cần quan sát mâm cơm ngày tết hay mâm cơm khách của người Hà Nội là thấy ngay được tính lịch sự và chu đáo trong đó. Trong một mâm bao giờ cũng có rất nhiều món, mỗi món một chút, mỗi món cho một khẩu vị riêng. Đặc biệt, cách bài trí các món ăn đều được trình bày rất đẹp và hấp dẫn. Khi ăn uống, người Hà Nội bao giờ cũng giữ nền nếp “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” và luôn luôn thận trọng, ý tứ khi trong mâm có người già cao tuổi hay khách khứa. Khi đi ăn tiệm thì cũng rất sành điệu để tìm nơi, tìm vị, chọn thời, chọn cơ, mà đã hợp với nơi nào thì thuỷ chung với nơi đó. Chính chất sành điệu trong ăn uống ấy mà người Hà Nội đã làm ra biết bao món ăn nổi tiếng và trở thành đặc sản chốn Thượng Kinh: phở, bún thang, chả cá, cốm vòng, rươi... Tóm lại, đó chính là nếp sống thuần hậu, khiêm nhường, thanh lịch của người Thăng Long - Hà Nội mà xưa kia Phạm Đình Hổ từng ca ngợi trong Vũ Trung tuỳ bút. Ông cho biết vào thời ông còn nhỏ, tức thời Lê Cảnh Hưng: "Phong tục chuộng thói trung hậu, mọi người hàng ngày giao tiếp với nhau có ý khoan dung, bình dị, giữ thói khiêm nhường. Nếu ai có điều gì sằng bậy, thì chỉ sợ người ta biết mà chê cười. Đến như những kẻ thân quan, quốc thích và những kẻ con em vô lại rong chơi, cũng không dám công nhiên làm càn. Nếu có kẻ nào không theo lễ phép mà làm sằng, thì những bậc phụ lão nhà lương gia lại ngầm đem chuyện ấy để răn bảo con cháu". Từ ngàn xưa, người Thăng Long - Hà Nội đã có nếp sống “có lịch có lề”. Đó chính là truyền thống văn minh - văn hiến ngàn năm trong thế ứng xử của người Hà Nội.

NÉT VĂN HOÁ HÀ THÀNH Hương Hà Nội



Không phải là người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Kẻ Chợ nhưng khoảng thời gian ngắn ngủi học tập tại đây cũng đủ để một con người có sở thích hà hít đến no nê, đẫy đà các mùi hương phải “yêu” những hương thơm đặc biệt trên mảnh đất này.

Tôi yêu những khoảnh khắc bước ra khỏi xe bus, cánh cửa xe đóng sập lại như nhốt giữ tất cả những mùi khó chịu, bí bách, ngột ngạt và nhường chỗ cho một khoảng trời mênh mông, bát ngát ngập tràn hương hoa sữa. Nhưng tuyệt vời nhất là sau mỗi cơn mưa rào bất chợt, lẩn khuất trong mùi ẩm ướt là hương thơm ngọt ngào, nồng nàn của hoa sữa. Những giọt mưa không làm nhạt hương, trái lại càng làm cho hoa sữa trở nên dịu ngọt và quyến rũ hơn. Chậm rãi từng bước, nhẹ nhàng rón rén tận hưởng hương hoa như sợ một hơi thở mạnh cũng làm tan biến mất.
Rồi những buổi sớm trong lành thấm đẫm hơi sương, mùi sen Tây Hồ nhẹ nhàng mà sâu lắng, man mác nhưng tinh túy mang cả hương của đất trời. Được đứng thả hồn giữa mênh mông nơi đầm sen và hít thật sâu hương thơm ấy, chắc không gì làm ta thư thái bằng…
Nhưng đặc biệt nhất và cũng giản dị nhất là mùi những con phố Hà Nội gắn liền với mùi hương các món ăn đặc trưng của con phố đó. Mùi của những gánh hàng rong, quà sáng ven đường. Những thứ mùi đơn giản nhưng chỉ thoáng ngửi qua là đã nhận ra ngay, đã có thể gọi tên được món ăn đó. Mùi quà sáng điển hình là xôi, phở… nhưng có lẽ mùi đặc trưng nhất, giúp người ta dễ gọi được tên món ăn phải là phở. Bởi, phở có ở mọi vùng miền, nhưng ai cũng phải công nhận phở Hà Nội có hương vị thơm ngon thật đặc biệt. Điều này đúng với những người yêu ẩm thực Hà Nội, kể cả các thực khách nước ngoài. Ngửi thấy mùi là nghĩ ngay tới bát phở nghi ngút khói. Nhưng nhớ nhất, ấn tượng nhất là những hàng phở gia truyền của Hà Nội. Đó là những quán phở hằn lên dấu vết của thời gian, những căn phòng bao bọc, nhuốm mùi khói, mùi phở. Hóa ra, mùi phở tại những quán này được người ta yêu, được người ta ấn tượng rồi nhớ bởi có sự cộng hưởng của không gian, của nồi nước dùng sôi sùng sục, của hơi ấm nóng tỏa ra từ chiếc bếp than… Phải chăng, người ta thưởng thức hương vị phở Hà Nội là muốn thưởng thức luôn cả mùi đặc trưng, mùi của không gian hàng quán phở nữa…
Ôi, còn cả mùi của những gánh hàng bún ốc, riêu… bên đường. Rồi hương cốm thoang thoảng mang theo cả hương sen thơm ngát trong những buổi sớm mùa thu khi ta vội vã trên đường đi làm. Đường phố Hà Nội vốn nhộn nhịp, đông đúc và đặc mùi khói xe là thế nhưng cũng không làm vợi, làm nhạt được các mùi hương đặc trưng tỏa ra từ những tán hoa sữa, hương sen Hồ Tây, hay mùi phở, mùi cốm, mùi xôi… Mỗi mùa lại có những mùi đặc trưng, mỗi phố, mỗi con đường đều giữ cho mình mùi hương đặc biệt.
Chính những mùi hương đó đã giúp nỗi nhớ của những người xa Hà Nội có một cái tên thật giản dị gắn liền với những con đường, góc phố thơm hương: “Nhớ phố Khâm Thiên đường Nguyễn Du, những đêm hoa sữa thơm nồng…” (Nhớ về Hà Nội – Hoàng Hiệp)