Hồ Gươm , Hà Nội |
Các
nền văn minh cổ đại bao giờ cũng gắn với các dòng sông, là con đẻ của
các dòng sông: Văn minh sông Hoàng, văn minh sông Hằng, văn minh sông
Nin và văn minh sông Hồng.
Các
đô thị cổ là trái tim, là văn minh của nền văn minh cổ đại cũng gắn với
các dòng sông ấy. Và tới lượt nó, các nền văn minh, các đô thị cũng
mang lại cho các dòng sông một diện mạo mới, diện mạo văn hóa. Hà Nội
của chúng ta. Một đô thị gần chẵn một nghìn năm của văn minh Đại Việt
cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hà
Nội là đô thị của các sông hồ. Cái tên “Hà Nội” diễn nôm là thành phố
“trong sông” hay các câu ca dân gian cửa miệng của người Hà Nội đã chứng
tỏ điều đó:
Nhĩ Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Hay:
Khen ai khéo họa dư đồ
Trước sông Nhĩ Thủy sau hồ Hoàn Gươm
Khen ai khéo họa dư đồ
Giữa nơi thành thị có hồ trong xanh
Nói
là sông hồ, nhưng thực ra với hồ Hà Nội hồ cũng là sông, vì các hồ như
Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Thủ Lệ, Trúc Bạch… đều là dấu tích của các khúc sông
chết, sản phẩm đôi dòng của sông Cái (sông Mẹ)
Hà
Nội được dựng lên trên cái nền của bãi sa bồi của sông Hồng, nơi ngã ba
sông, địa thế bằng phẳng thoáng đãng, giao thông đi lại bằng đường bộ,
đường thủy thuận lợi, xứng đáng với đất trung tâm tụ hội. Chẳng thế mà
trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đã coi Thăng Long là: “Ở trung tâm bờ
cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, ở vị trí ở giữa bốn
phương Đông, Tây, Nam,
Bắc: Tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng,
vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất
phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ
hội họp bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương”.
Trong
cái “tứ giác nước” (như cách nói của cố GS. Trần Quốc Vượng) với phía
Bắc và phái Đông là sông Nhị Hà, còn sông Tô và Kim Ngưu bao bọc phía
Tây và phía Nam.
Thành lũy quanh Thăng Long cũng là đê ngăn lũ. Các sông hồ không chỉ
bồi phủ tạo nên các bờ bãi tốt tươi, mà còn là hệ thống giao thông, hệ
thống trữ nước, cấp nước và tiêu nước cho Hà Nội. Ở các thời tiền thực
dân, tức tiền công nghiệp hóa, thuyền bè là phương tiện đi lại chính
trên sông, đặc biệt là sông Cái:
Lênh đênh ba mũi thuyền kề
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu
Hay:
Ai về Hà Nội, ngược nước Nhị Hà
Buồm giăng ba ngọn vui đà vui thay
Con
sông Tô Lịch thời đó trong xanh, không bị thu hẹp dòng và ô nhiễm như
bây giờ, còn là nơi vua quan, thị dân du thuyền xuôi ngược:
Sông Tô nước chảy trong ngần
Cơn thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Cấu
trúc Thăng Long thời trung cổ là điển hình cho kiểu thành thị phong
kiến, trong đó thành là nơi định đô với thành quách cung điện, nơi ở của
vua quan; còn ngoài thành là “thị” với bến sông chợ búa, nơi sinh sống
và buôn bán của thị dân. Ngày nay dấu tích các chợ còn lại khá rõ ở các
cửa thành, như chợ Cửa Nam, chợ Cửa Bắc (nay là chợ Châu Long), chợ Cửa
Tây (nay là chợ Ngọc Hà), chợ Cửa Đông (gần chợ Đồng Xuân).
Ngày
nay với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, Hà Nội không
còn bó gọn trong cái “tứ giác nước” đó nữa mà đã vượt ra ngoài, không
còn là thành phố “một bên sông”, thành phố “trong sông” nữa mà đang mở
rộng sang cả hai bờ, ôm gọn cả khúc sông Hồng vào lòng.
Sông
Hồng đã tạo nên vị thế và diện mạo của Hà Nội, một vị thế và diện mạo
có một không hai ở nước ta. Tuy nhiên Hà Nội, con người Hà Nội đã khoác
lên các sông hồ nơi đây một diện mạo mới, diện mạo văn hóa. Có thể nói,
mỗi khúc sông nhánh hồ của thành phố đều thấm đậm các huyền tích, truyền
thuyết, dấu ấn lịch sử, khiến nó trở nên lung linh, huyền ảo, ẩn chứa
hồn núi sông:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
(Nguyễn Đình Thi)
Sông Hồng, khúc chảy qua Hà Nội, đã từng chứng kiến các sự kiện hào
hùng của dân tộc chống giặc ngoại xâm với các di tích Tây Kết thời Lê
Hoàn chống Tống, Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp…trong chiến thắng Nguyên
Mông, Xuân 1285:
Đoạt giáo Chương Dương độ, cầm hồ Hàm Tử quan
(Trần Quang Khải)
Đây cũng là đoạn sông với sự ẩn hiện các thủy thần. Nằm trong hệ thống trấn thủy thần núi Ba Vì- Sơn Tinh, vị thần bảo trợ cho kinh
thành Thăng Long. Huyền thoại Lý Ông Trọng chém mãng xà cứu mẹ ở khúc
sông đình Chèm, gắn với lễ hội đình Chèm hàng năm vào tháng Giêng. Với
hệ thống tín ngưỡng “trấn thủy” này còn có cả các huyền thoại diệt thuỷ
quái trên sông Tô Lịch ở góc thành phía Tây Thập Tam Trại, kéo dài sang
tận vùng Lệ Mật (Nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên) với truyền
thuyết chàng trai họ Hoàng chém rắn cứu công chúa nhà Lý. Cũng nằm trong
hệ thống Thập Tam Trại xưa, làng Thủ Lệ ngay sát kinh thành xưa, lại
thờ thần Linh Lang phun nước làm mưa, được dân làng Thủ Lệ tôn thờ, là một trong Tứ Trấn của kinh thành Thăng Long.
Đẹp
hơn cả vẫn là huyền thoại Chử Đồng Tử - Tiên Dung, một mối tình mang
đầy chất tự nhiên, làm thơ mộng cả một dải sông Hồng phía Nam Hà Nội, để
lại ven sông không chỉ là những đình đền thờ cúng các vị thần mà còn là
các nghi lễ, lễ hội, phong tục.
Phong
phú không kém là hệ thống các huyền thoại, truyền thuyết và di tích ven
các hồ trong lòng Hà Nội. Ai cũng biết hồ Hoàn Kiếm là biểu tượng
thiêng liêng của người Hà Nội, nơi có Tháp Rùa lung linh soi bóng ngàn
đời đáy nước, ghi dấu huyền thoại Lê Thái Tổ, người sáng nghiệp nhà Lê
trả gươm thần cho Rùa vàng, đền Ngọc Sơn, tượng Vua Lê, nay thêm tượng
Lý Công Uẩn, người sáng lậpThăng Long- Hà Nội…
Hồ
Tây là một hồ lớn, xưa ở phía Tây kinh thành, dấu tích của sông Cái đổi
dòng, nay con hồ này đã nằm gọn trong lòng Hà Nội. Cả một hệ thống
huyền thoại, di tích, lễ hội đày đặc quanh Hồ Tây (còn gọi là hồ Dâm
Đàm), mà tác phẩm “Tây Hồ chí” được viết từ cuối thế kỷ XIX đã mô tả chi
tiết. Các huyền thoại về Trâu Vàng (Kim Ngưu) về Hồ Tinh, huyền thoại về chó mẹ trên lưng mang chữ Vương, từ bên kia sông Cái bơi về lót ổ đẻ Cẩu Nhi (chó
con) ở Trúc Bạch, một nhánh Tây Hồ, đánh dấu điềm lành khi Lý Công Uẩn
lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Đại La, khai sinh thành Thăng Long nghìn
năm. Huyền thoại về Bà Chúa Liễu Hạnh gặp gỡ và đàm thoại văn thơ với
nhà thơ Phùng Khắc Khoan, do vậy đã để lại cho Hà Nội đời sau một phủ
Tây Hồ linh thiêng, huyền ảo. Gắn với huyền thoại là các di tích đình,
đền, chùa và lễ hội quanh Hồ Tây như đền Quán Thánh, di tích của Đạo
giáo, chùa Trấn Quốc, ngôi chùa thuộc loại cổ nhất, nơi vua chúa xưa đi
lễ chùa, chùa Kim Liên, Quảng Bá, đình Yên Phụ, đền Kim Ngưu, phủ Tây
Hồ.
Có
một cái hồ vốn xưa kia nằm ở ngoại thành Hà Nội, nhưng nay ven hồ đã
mọc lên một khu chung cư, đó là hồ Linh Đàm (Đầm Mực). Truyền rằng đây
là nơi trú ngụ của Thần Lâm Đàm (thần Rồng), đã từng hóa thân thành cậu
học trò theo học thầy Chu Văn An. Gặp năm trời hạn hán, vì thương xót
dân, Thần hút mực trong các nghiên bút, phun lên trời cầu mưa, giúp
người trừ hạn hán, làm cả mặt hồ đen ngòm như mực, do vậy mà bị Thiên Đình tức giận trị tội chết. Người dân nơi đây nhớ ơn, lập đền thờ Thần.
Làm
sao mà kể hết các huyền thoại, di tích, lễ hội, phong tục gắn với sông
hồ của Hà Nội, tạo nên một Thăng Long- Hà Nội thấm đậm tinh thần lịch sử
và tâm linh. Ở đây thiên nhiên và văn hóa, con người và môi trường đã
hòa với nhau làm một, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên- địa- nhân, một bản
sắc văn hóa của Việt Nam nói riêng và của phương Đông nói chung.
Thăng
Long Hà Nội nghìn năm đã hình thành nên những giá trị và bản sắc, nay
đứng trước xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang bị vỡ ra để tái
cấu trúc thành Hà Nội thời đại Hồ Chí Minh, có hàng loạt vấn đề đang đặt
ra giữa kiến trúc đô thị và môi trường.
Hà
Nội đã mở rộng và hiện đại hơn, nhưng các sông hồ thì có bị bồi lấp,
thu hẹp và ô nhiễm. Hà Nội có còn giữa được sự hài hòa giữa kiến trúc
hiện đại với sự hiền hòa, tươi mát của các dòng sông, mặt hồ?
Chắc
chắn trong tương lai Hà Nội sẽ có cơ sở vật chất khang trang, có “nhà
cao cửa rộng” nhưng có còn giữ được cái hồn của những huyền thoại,
truyền thuyết lịch sử lung linh? Nói một cách tổng quan hơn: Hà Nội có
còn là đô thị của sông hồ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét