Châu Á
thế kỷ 21 hoàn toàn có thể xảy ra những biến cố giống như vụ ám sát
hoàng tử Áo Ferdinand, sự kiện châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ
nhất. Căng thẳng gia tăng trong các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và
Hoa Đông đe dọa phá vỡ Thế kỷ được dự báo là của châu Á này.
Chưa rõ
kết quả sẽ ra sao, nhưng ở đây rõ ràng không chỉ tồn tại những chủ nghĩa
dân tộc đang đấu tranh với nhau, những vết sẹo còn hằn sâu trong ký ức
mỗi quốc gia và sự trỗi dậy của một Trung Quốc ngày càng hung hăng đằng
sau những xung đột lợi ích.
Với nhiều
người, tất cả là vì dầu mỏ: quan điểm được nhiều người chia sẻ là dưới
các vùng biển tranh chấp này chứa đựng một kho báu dầu khí có thể đáp
ứng nhu cầu năng lượng của tất cả các nền kinh tế châu Á năng động.
Thế nhưng
thật trớ trêu khi vẫn chưa hề có một cơ sở nào khẳng định suy nghĩ phổ
biến này. Trên thực tế, người chiến thắng trong các tranh chấp Biển Đông
và Hoa Đông cũng khó có khả năng kiếm được nhiều năng lượng đủ để tạo
sự khác biệt đáng kể cho nhu cầu năng lượng ngày một lớn của mình. Điều
này đặc biệt đúng trong trường hợp của Trung Quốc. Trong bất kỳ tình
huống nào, việc khai thác nguồn tài nguyên nào đang tồn tại sẽ đòi hỏi
sự chắc chắn và ổn định cao về pháp lý cũng như chính trị.
Căng
thẳng trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ lên xuống như thủy triều những
năm gần đây. Kể từ năm 1974, khi Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam, đã xảy ra hơn 20 cuộc đụng độ quân sự trên Biển Đông. Đa
số các vụ việc xảy ra trong những năm 1990, sau đó là giai đoạn tương
đối trầm lắng cho tới gần đây. Mặc dù Trung Quốc đã ký và thông qua Điều
ước Luật Biển (LOS), sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc lại dựa trên
căn cứ đi ngược lại với điều ước này. "Đường chín đoạn" của họ bao gồm
hơn 80% Biển Đông, đi quá xa so với phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200
hải lý được Điều ước công nhận.
Một nhân
tố mới có thể làm gia tăng rủi ro trong tranh chấp là những tiến bộ
không ngừng của công nghệ khoan biển sâu. Cho tới những năm 1990, gần
như không có giàn khoan dầu khí ngoài khơi nào có thể hoạt động tại các
mỏ sâu hơn 304m. Trong 2 thập niên trở lại đây, nguồn dầu tăng trên khắp
thế giới có được nhờ công nghệ khoan "siêu sâu" - với độ sâu tới
1.500m. Cho đến gần đây, công nghệ này vẫn chỉ giới hạn chủ yếu trong
các công ty năng lượng đa quốc gia lớn của phương Tây. Sau đó, tháng 5
năm ngoái, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) tuyên bố
phát triển thành công giàn khoan dầu nước sâu với chi phí chỉ xấp xỉ 1
tỷ USD, có khả năng hút dầu ở độ sâu 12.000m.
Đến nay,
vẫn chưa có khảo sát chính thức nào về tiềm năng dầu khí tại Biển Đông
hay Hoa Đông. Ước tính của Trung Quốc về trữ lượng dầu khí ở cả hai khu
vực tranh chấp xem ra quá phóng đại so với số liệu của các công ty năng
lượng đa quốc gia lớn và nhiều nhà phân tích khác. Trung Quốc ước tính
trữ lượng dầu ở biển Hoa Đông là 160 tỷ thùng, gần gấp đôi con số ước
tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Về trữ
lượng Biển Đông - theo đa số các chuyên gia, khoảng 70% là khí gas -
Trung Quốc cũng khẳng định con số cao hơn nhiều. CNOOC ước tính có
khoảng 213 tỷ thùng dầu - gần bằng quy mô trữ lượng đã kiểm chứng của
Ả-rập Xê-út. Con số này cao gần gấp 12 lần ước tính của Cơ quan Địa chất
Mỹ, và hãng tư vấn năng lượng Wood-Mackenzie nhận định có tổng cộng 2,5
tỷ thùng quy dầu khí đã kiểm chứng ở các đảo và bãi ngầm thuộc Biển
Đông - tức là thấp hơn gần 100 lần so với khẳng định của Trung Quốc!
Ngoại trừ
Trung Quốc và các doanh nghiệp nước này đã thực hiện các dự án khai
thác chung với các công ty nước ngoài, nhiều quốc gia Đông Á đang tìm
cách khai thác nguồn tài nguyên tại các đảo và bãi đá tranh chấp cũng
cần hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, nhiều bên tranh
chấp trong ASEAN tại Biển Đông đã ký các hợp đồng thăm dò dầu với các
công ty nước ngoài. Tuy nhiên, rủi ro chính trị và thiếu pháp lý vững
chắc tại các lãnh thổ tranh chấp khiến họ khó nhận được những khoản đầu
tư quy mô lớn.
Theo tác
giả, hợp lý nhất vẫn sẽ là chính sách mà Trung Quốc đã theo đuổi cho tới
gần đây, như sáng kiến của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, "gác
tranh chấp, cùng khai thác". Tuy nhiên, trước thực tế quá trình ra
quyết sách thiếu rõ ràng của Trung Quốc, không khó để đưa ra nhận định
rằng sự kết hợp giữa tham vọng hải quân, chính sách tài nguyên mang màu
sắc chủ nghĩa trọng thương, và niềm tin quá lớn vào nguồn năng lượng và
năng lực công nghệ dầu khí mới có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc từ bỏ đường
lối chính sách trên của Đặng Tiểu Bình.
Điều mỉa
mai là, Đặng Tiểu Bình đã nói đúng. Rất khó có thể tìm ra phương thức
giải quyết tranh chấp: Làm sao các quốc gia có thể nhượng bộ danh dự
quốc gia và bỏ qua các ký ức lịch sử? Và cũng rất khó xây dựng một sự ổn
định pháp lý và chính trị để giảm thiểu rủi ro, cho phép các công ty
năng lượng toàn cầu tiến hành những khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ USD.
Đa số các hợp đồng thăm dò khai thác được ký với các công ty năng lượng
nhỏ.
Trên thế
giới và trong khu vực cũng có nhiều tiền lệ khai thác tài nguyên chung.
Các nước Bắc cực đã ký một thỏa thuận khai thác chung. Ở Đông Á, Thái
Lan và Malaysia cũng có một hiệp định khai thác dầu khí chung và hiệp
ước tương tự cũng tồn tại giữa Đông Timor và Australia.
Chưa hết,
Trung Quốc và Nhật Bản cũng từng đạt được thỏa thuận khai thác dầu khí
chung trong khu vực xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku hoang đang
tranh chấp vào năm 2008. Bắc Kinh và Tokyo thống nhất cùng khai thác 4
mỏ khí tại Hoa Đông và gác lại hoạt động khai thác tại các khu vực tranh
chấp khác. Hai bên đồng ý tiến hành khảo sát chung, và đầu tư ngang
nhau vào khu vực phía bắc mỏ khí Chunxiao/Shirakaba và phía nam mỏ khí
Longjing/Asunaro. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt đầu đơn phương khai thác
mỏ khí Tianwaitian/Kashi, dẫn đến cuộc biểu tình phản đối tại Nhật Bản
vào tháng 1/2009. Hành động gây tranh cãi đó, cùng với cuộc đụng độ năm
2010 giữa tàu cá Trung Quốc với tàu cảnh sát biển Nhật Bản đã làm trì
hoãn việc thự thi hiệp định.
Tại Đông Á
đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc các chính phủ mới sau khi lên
nắm quyền tại Tokyo, Seoul và Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng ra sao đến các tranh
chấp lãnh thổ. Chỉ riêng việc gia tăng hoạt động của các tàu tuần tra
tại khu vực tranh chấp cùng với các cuộc tuần tra trên không đủ báo hiệu
năm 2013 có thể sẽ chứng kiến ít nhất một vài cuộc đụng độ hải quân.
Trong một tín hiệu tích cực hơn, Thủ tướng Nhật Bản Shintaro Abe, một
lãnh đạo theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hăng hái, đã nhanh chóng cử
phái viên cấp cao tới Seoul, nơi đang có tranh chấp lãnh thổ với Nhật
Bản, để trấn an chính phủ mới của bà Park Geun-hye và cố gắng nối lại
quan hệ hữu nghị.
Quan hệ
Trung-Nhật đang đặc biệt căng thẳng khi Trung Quốc cử các tàu của cơ
quan an ninh biển đi tuần tễu hằng ngày quanh Senkaku và một số nhân vật
tại Nhật Bản đe dọa cử Lực lượng phòng vệ trên không bắn cảnh báo. Như
khi giữ chức vụ thủ tướng năm 2006, ông Abe đã tiến hành nỗ lực đặc biệt
để xoa dịu quan ngại của Trung Quốc khi lên cầm quyền. Lấy kinh tế làm
ưu tiên và cuộc bầu cử Thượng viện diễn ra trong tháng 7, ông Abe được
chờ đợi sẽ hạn chế đối đầu - ít nhất trong ngắn hạn. Nhưng trước sự phẫn
nộ của người dân với những hành vi khiêu khích từ Trung Quốc, ông Abe
và nội các đang "say đắm" chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ càng khấy động
tình hình.
Mỹ đã kêu
gọi cả hai bên kiềm chế căng thẳng và một phái đoàn quan chức an ninh
và ngoại giao cấp cao đã được cử sang để cố vấn cho các đồng minh Nhật
Bản và Hàn Quốc.
Cuối
cùng, một loạt các tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại châu Á chắc chắn sẽ
không mang đến vận may năng lượng cho bất kỳ ai. Trừ khi khu vực có thể
tìm ra lối đi giải quyết hay ít nhất là quản lý khát vọng dân tộc chủ
nghĩa đang thúc đẩy điều lẽ ra chỉ là những cuộc tranh chấp nhỏ đối với
một số đảo và bãi ngầm hoang, nếu không, Thế kỷ châu Á cũng sẽ sớm chấm
dứt mà thôi.
Trâm Anh theo Robert A. Manning/ Yale Global
Tác giả Robert A. Manning
nguyên là cố vấn cấp cao (2001-2004) và thành viên Tổ hoạch định chính
sách Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 2004-2008. Hiện ông đang là thành viên cấp
cao của Trung tâm An ninh quốc tế Brent Scowcroft của Hội đồng Thái Bình
Dương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét