Đình Tây Đằng được dựng từ thế kỷ 16 với những rường, cột trụ, vì nóc..., thể hiện tinh hoa sáng tạo người Việt một thời.
Tây
Đằng đứng đầu trong chuỗi đình của đất Quảng Oai, gồm những làng cổ tọa
lạc trên các quả đồi đá ong, một vùng của xứ Đoài xưa, nay thuộc Thủ đô
Hà Nội.
Đình được dựng từ thế kỷ 16, vào loại cổ nhất Việt Nam.
Hơn thế, ngoài đình chùa, trong di sản văn hóa vật thể của người Việt,
chưa phát hiện được công trình nào làm từ gỗ còn nguyên vẹn mà có niên
đại xa xưa hơn.
Ngôi
đình có bố cục nguyên thủy: mặt nằng hình chữ nhật, năm gian, nơi thờ
trên gác lửng ở gian giữa. Tả mạc, hữu mạc, chuôi vồ xây thêm vào các
đời sau.
Cấu
trúc gỗ đình đặc trưng bởi bộ vì nóc làm theo kiểu “giá chiêng” với con
rường trên cong vồng, có hai trụ hai bên với ván bưng hình lá đề chạm
đôi phượng. Vì nóc kiều này chỉ có thể thấy ở một vài kiến trúc có niên
đại rất xưa như chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Bối Khê và chùa Mui (Hà Nội),
chùa Thái Lạc (Hải Dương). Chưa một ngôi đình, đền nào khác có một sự
thiên biến văn hóa hình rồng đến thế. Thân rồng gầy rộc, con ngươi mắt
vượt ra ngoài quỹ đạo, miệng há rộng mà không phát thành âm. Nó nhìn như
xói vào cõi lòng...
Ngôi đình Tây Đằng gồm có kết cấu trồng rường giá chiêng, gồm 5 gian. Có 8 hàng cột ngang và 6 hàng cột dọc, tổng cộng là 48 cây cột gỗ trong đó những cây cột lớn nhất có đường kính lên tới 80 cm. Các cây cột này đỡ hệ mái lợp ngói có các đầu đao cong trang trí hình rồng, phượng, lân, rùa bằng đất nung. Xung quanh để trống chứ không làm tường. Các chi tiết chạm khắc trên các phần gỗ theo nhiều đề tài khác nhau.
Tả
mạc và hữu mạc là hai ngôi kiến trúc ở hai phía sân trước ngôi đình.
Cổng đình gồm 5 cây cột, không có mi. Trên đỉnh cột có trang trí hình
lân. Cổng đình rộng theo cả chiều ngang của sân đình từ tả mạc sang hữu
mạc.
Đình
Tây Đằng còn hiện hữu những bức chạm mô tả và vĩnh cửu hóa cảnh sinh
hoạt đời thường: gánh con đi chợ, đốn củi, cày bằng voi, săn hổ, chèo
thuyền, con trai ghẹo gái làng, uống rượu… Ngôn ngữ thể hiện cảnh đời
của các nghệ sĩ dân gian gần gũi với ngôn ngữ thể hiện của các họa sĩ
thế kỷ 20.
Chạm
trên ván gió đình Tây Đằng là chú voi tung cả bốn chân, vòi, đuôi và
toét miệng cươi, cảm giác chú bay như làn gió, quên mất trọng lượng bản
thân. Những thân cột, xà, đầu dư, kẻ bảy đình Tây Đằng tồn tại vượt qua
các cửa ải sinh tử: sự mục nát, sự hủy hoại trong bão lũ và trong ngọn
lửa, tàn phá và sự tham lam của người đời. Những khúc, mảng gỗ vô giác
ấy bảo lưu cả một kho tàng sáng tạo, tình người và khát vọng, làm nhân
chứng một thời.
Đình
vừa là nơi làm việc của các chức sắc và những người có ảnh hưởng trong
làng, vừa là nơi tổ chức các lễ hội của làng, vừa là nơi thờ các thành hoàng của làng (gồm Sơn Tinh, Thánh Gióng, và Thần Nông).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét