Để có những tác phẩm xuất chúng, để đời- người nghệ sỹ đã phải trả giá bằng cả cuộc đời bi kịch, đau thương.
Mặc
dù phải chịu đựng những cơn tra tấn về thể xác, tinh thần, sự cô đơn,
nghèo túng, họ vẫn không ngừng theo đuổi niềm đam mê nghệ thuật để tạo
ra những kiệt tác được đời đời ca tụng.
1. Henri Marie Raymond de Toulouse-Lautrec, họa sĩ

Họa
sĩ người Pháp này được sinh ra trong một gia đình quí tộc vào năm 1864,
nhưng ông đã gặp một số vấn đề về sức khỏe do việc kết hôn cận huyết
gây ra. Cha mẹ ông là anh em họ gần, họ cưới nhau theo truyền thống kết
hôn trong dòng họ và kết quả là ông sinh ra với các dị tật bẩm sinh. Sau
khi ông bị gãy xương và không thể lành hẳn, ông được chẩn đoán với một
loại bệnh làm cơ thể còi cọc mãi mãi. Phần trên cơ thể ông thì lớn bình
thường, nhưng phần chân thì chỉ như một đứa trẻ con nên ông chỉ cao tầm
1.5m. Do không thể thực hiện các hoạt động thể chất bình thường, ông sử
dụng hội họa để cho khuây khỏa. Ông đắm mình vào việc vẽ và sơn, tạo ra
các tác phẩm Hậu ấn tượng và Art Nouveau miêu tả cuộc sống phóng đãng và
đôi khi là rất buồn của một người du đãng ở Paris. Chủ đề yêu thích của
ông là các quán rượu trong thành phố và đám người trong đó. Những tác
phẩm tuyệt vời của Toulouse-Lautrec ngày càng đẹp hơn trong khi chính
bản thân ông tiến gần tới cái chết. Ông bị mắc bệnh giang mai, và bản
thân là người nghiện rượu. Ông mất năm 36 tuổi do lạm dụng chất absinthe
với thành phần cồn và chất gây nghiện rất cao.
2. Thomas De Quincey, nhà văn

Sinh
ra ở Manchester, Anh vào tháng 8/1785, De Quincey là một đứa trẻ ốm yếu
và bệnh tật. Ông mất cha khi còn nhỏ và cùng mẹ chuyển tới Bath. Mẹ ông
là một người rất nghiêm khắc, thậm chí đã cho ông nghỉ học 3 năm để
ngăn ông không tự cao tự đại. Tới tuổi thanh niên, De Quincey bắt đầu
cuộc sống của một người lang thang, trong nghèo khổ và trốn tránh gia
đình mình. Sau đó, ông quay lại trường học, nhưng vẫn không thể hòa nhập
với bạn bè. Ông bắt đầu sử dụng thuốc phiện và ngày càng lấn sâu vào nợ
nần và nghiện ngập. Vào năm 1821, ông viết cuốn "Lời thú tội của một kẻ
nghiện thuốc phiện", tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Cuốn tự truyện
này cho người đọc một cảm giác ám ảnh về hiện thực khó khăn của cuộc
sống.
3. Fyodor Dostoyevsky, nhà văn

Fyodor
Mikhaylovich Dostoyevsky là một nhà văn người Nga với những tác phẩm
thiên tài như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và trừng phạt. Ông được
coi là người sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh. Dostoyeuvsky lớn lên với
một người cha nghiện rượu. Ông thường chống lại lời của cha mẹ bằng việc
trốn vào trại tâm thần để gặp những người trong đó và nghe câu truyện
của họ. Fyodor cũng bị chứng động kinh từ năm 9 tuổi. Năm 1832, cha ông
qua đời, có thể là do bị sát hại bởi những người tức giận với những cơn
say của ông. Dostoyevsky bắt đầu nghiệp viết văn sau một thời gian trong
quân đội. Ngày 23/4/1849, do dính líu tới các hoạt động chính trị, ông
bị đày tới vùng Siberi. Ông ở trong tù 4 năm dưới những điều kiện rất
gian khổ. Nhà tù đã thay đổi quan điểm chính trị và cả tính cách của
ông. Trong những năm sau này, Dostoyevsky đã viết nên những tác phẩm vĩ
đại nhất của mình, trong khi vẫn phải vật lộn với việc nghiện cờ bạc, nợ
nần và những cơn trầm cảm. Ông qua đời năm 1881 sau một cơn đột quị gây
xuất huyết phổi.
4. Tennessee Williams, nhà soạn kịch

Nhà
soạn kịch huyền thoại người Mỹ này sinh ngày 26/3/1911 với tên khai
sinh là Thomas Lanier Williams. Sau này ông đổi tên thành Tennessee,
theo địa danh nơi cha ông sinh ra. Là một đứa trẻ ốm yếu, ông thường
xuyên gặp các bệnh ở phần cổ cũng như bị coi thường bởi cha mình, người
luôn cho rằng ông là một đứa trẻ yếu đuối. Xung đột giữa dòng họ của cha
và mẹ ông về các vấn đề đạo đức, giá trị cuộc sống xuất hiện trong tất
cả các tác phẩm của ông. Tennessee Williams cũng chịu nhiều bất ổn tâm
lý do phải giấu diếm việc mình là người đồng tính. Ông giữ kín chuyện
này cho tới năm 1970. Thói nghiện ngập, trầm cảm và bạo lực xuất hiện
đồng thời trong các tác phẩm cũng như cuộc sống của chính Williams. Năm
1969, tác giả giành giải Pulitzer này đã phải chịu sự suy nhược cả về
thể chất và tinh thần. Ông qua đời 8 năm sau đó.
5. Ludwig van Beethoven

Ludwig
van Beethoven được sinh ra ở Bonn, Đức vào năm 1770. Cha ông đã dạy
nhạc cho ông từ khi còn bé. Tới năm 9 tuổi, tài năng của ông đã sớm được
công nhận. Năm 1787, Beethoven tới Vienna với hi vọng được học hỏi từ
chính nhà soạn nhạc thiên tài Mozart. Tuy nhiên, mẹ ông ốm rất nặng và
ông đã trở về với mẹ mình trước khi bà qua đời. Trong thời gian đó, ông
được một vị bá tước giàu có chú ý và trở thành người tài trợ cho ông.
Với tài năng của mình, Beethoven đã có một cuộc sống khấm khá dựa vào
khả năng sáng tác và trình diễn của mình. Tuy nhiên, khi sự nghiệp đang
lên cao thì cũng là lúc ông bị mất thính giác. Lí do cho việc ông bị
điếc vẫn chưa rõ ràng. Thật bi kịch khi nhạc sĩ tài năng chuyên sáng tác
những tác phẩm âm nhạc tuyệt vời lại không thể nghe chính những sáng
tác của mình. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục sáng tác và chơi nhạc dù cho ông
chỉ có thể thấy đám đông tán thưởng chứ không thể nghe thấy họ. Nhà tù
im lặng mà ông phải chịu đựng khiến ông trở thành một nghệ sĩ bị tra
tấn. Sau này, người ta tin rằng hàm lượng chì rất cao trong cơ thể
Beethoven chính là một trong những lí do dẫn đến việc ông bị điếc.
6. Ernest Hemingway, nhà văn

Sinh
năm 1899, Ernest Hemingway giành giải Nobel và Pulitzer cho các tác
phẩm của mình, bao gồm cả cuốn Ông già và biển cả. Mẹ của ông có ảnh
hưởng rất lớn, ép ông phải học nhạc khi còn bé vì bà dạy nhạc và từng mơ
được trở thành một ca sĩ opera. Hemingway phản đối điều này, thay vào
đó, ông chọn các hoạt động truyền thống khác phù hợp hơn như câu cá và
dã ngoại. Ông từng muốn vào quân đội để tham gia chiến tranh thế giới
thứ nhất, nhưng thị lực của ông rất kém và không thể vuợt qua được vòng
khám tuyển sức khỏe. Thay vào đó, ông tham gia lực lượng cứu thương Chữ
thập đỏ. Ông đã ở rất gần với cuộc chiến trên mặt trận Italia và phải
chứng kiến sự chết chóc và tàn phá. Những trải nghiệm này đã thay đổi và
ám ảnh suốt cuộc đời ông. Sau khi trở về Mỹ, Hemingway phải đối diện
với một mối quan hệ tan vỡ. Ông tìm kiếm công việc với tư cách là một
nhà báo, viết và trải nghiệm rất nhiều qua các chuyến phiêu lưu khắp thế
giới. Người ta tin rằng ông phải chịu các cơn trầm cảm, khiến ông tụt
dốc không phanh trong những năm cuối đời. Năm 1961, Hemingway tự sát
bằng một phát súng vào trán.