Một đoạn kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè hôm nay với nhiều mảng xanh. Ảnh: Trần Việt Đức
|
Những ngày này, đi dọc hai tuyến đường Trường Sa và Hoàng Sa uốn lượn dọc dòng kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, dễ dàng bắt gặp hình ảnh vào buổi sáng các cụ ông, cụ bà tập thể dục bên những bồn hoa vừa mới được trồng và chiều đến, nhiều người dân thả bộ ra các cây cầu bắc ngang kênh để hóng mát.
Đứng hóng mát trước căn nhà mặt tiền số 220/174B đường Lê Văn Sỹ, phường 14, quận 3 (nay đã là mặt tiền đường Trường Sa), ông Nguyễn Thành Sương (chủ nhà), cho biết hình ảnh hiện tại trái ngược hoàn toàn với cảnh nhếch nhác của hơn 20 năm trước. Lúc đó, nói đến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, mọi người đều nghĩ ngay đến dòng kênh đen ngòm, đầy rác, lúc nào cũng bốc mùi hôi thúi, tanh tưởi không những ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị mà còn tác động trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của khoảng 1,2 triệu người sống trong lưu vực kênh này.
“Nói thật, khi đó cả năm nhà tôi chẳng thấy có khách đến thăm. Hỏi ra mới biết, tất cả là do ô nhiễm; bởi chúng tôi sống ở đây lâu, nên quen với mùi hôi thối này, chứ những người mới đến hoặc đi qua, thì thường nín thở mà đi. Rác thải ngập ngụa dòng kênh khiến nước kênh đặc sệt, làm muỗi sinh sôi nảy nở. Giờ thì hoàn toàn khác! Hàng ngày, trẻ em cũng như người lớn tuổi đi bộ, tập thể dục, thư giãn dọc theo con kênh nơi nhìn chẳng khác gì một công viên thu nhỏ với vỉa hè sát bờ kênh trồng thảm cỏ, những cây hoa tầng thấp, tầng cao...”, ông Sương tâm sự.
Trong câu chuyện quanh bàn trà mỗi buổi sáng mai giữa ông Sương và bạn già trong xóm, tôi còn được nghe cụ Nguyễn Văn Bản ở gần nhà ông Sương, nhận xét: “Từ ngày trạm bơm Nhiêu Lộc – Thị Nghè đưa vào hoạt động, nước thải sinh hoạt không còn thải xuống kênh nên dòng kênh đã hết hẳn váng dầu, mỡ nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Chắc không lâu nữa tôm cá sẽ về, nước sẽ trong xanh trở lại”.
Ngay khi cụ Bản vừa dứt lời, ông Sương cười, nói chen vào: “Rồi đây có khi mấy công ty du lịch còn tổ chức cho khách chèo thuyền tham quan trên suốt tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè nữa không chừng. Chuyện không tưởng đã xảy ra, dòng kênh đã sống lại rồi!”
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, khu vực cầu Kiệu... Ảnh: Thái Bằng
|
Không chỉ vui mừng vì dòng kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đang sống lại, từ hai năm nay, khi dự án mở rộng hai con đường ven kênh Trường Sa và Hoàng Sa hoàn thành, hàng ngàn hộ dân nơi đây còn hy vọng vào việc đổi đời, đổi nghề. “Hiện tại, nhờ vào việc cho thuê cái kiốt rộng hơn 20m2, chúng tôi kiếm được hơn 7 triệu đồng/tháng, đủ để cho hai vợ chồng già chi tiêu và thỉnh thoảng đi du lịch đó đây”, bà Trần Thị Thanh, ngụ đường Phạm Văn Hai (Trường Sa), phường 4, quận Tân Bình, chia sẻ.
Kể từ khi tuyến đường Trường Sa hoàn thành việc mở rộng đoạn từ ngã ba Út Tịch – Lê Bình (quận Tân Bình) lên đến cầu Lê Văn Sỹ (quận 3), hai vợ chồng chú Nguyễn Văn Thu, ngụ 225/88 Huỳnh Văn Bánh (nay là đường Trường Sa), phường 14, quận Phú Nhuận, lập tức biến căn nhà nhỏ của mình thành một quán ốc, buôn bán lai rai, mỗi ngày kiếm được hơn 300.000 đồng. “Không chỉ đủ nuôi thân, nhờ vào quán ốc, hai vợ chồng già tôi mỗi tháng còn cho hai đứa cháu nội mỗi đứa 2 triệu đồng để đóng tiền học phí và mua sách vở để học tập”, chú Thu nói.
Chuyện đổi đời của bà Thanh, vợ chồng chú Thu cũng là câu chuyện đang diễn ra với rất nhiều hộ dân sinh sống dọc kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè hiện tại...
...và khu vực cầu Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thạnh, trước khi cải tạo dòng kênh. Ảnh: Thái Bằng
|
Gian nan thực hiện dự án Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè chảy qua bảy quận nội thành của thành phố, gồm: quận 1, 3, 10, Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp và Bình Thạnh. Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè giai đoạn 1 là một trong những dự án vệ sinh môi trường thành phố, với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 8.600 tỉ đồng. Trong đó, vốn ODA của ngân hàng Thế giới là 5.252 tỉ đồng, vốn đối ứng ngân sách 3.348 tỉ đồng. Năm 1988, Thành uỷ TP.HCM ban hành nghị quyết về chương trình cải tạo, chỉnh trang kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, nhưng do thiếu kinh phí, nên thành phố chỉ làm thí điểm một đoạn chừng 50m ở cầu Nguyễn Văn Trỗi. Bấy giờ, TP.HCM lên phương án cho thuê nhà, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, nhưng tình hình cũng không mấy khả quan, bởi vì thời điểm đó tiền cho thuê, bán nhà không được bao nhiêu. Rồi nghị định 61 về bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước ra đời. Giải pháp tài chính được tháo gỡ, dự án nhanh chóng được triển khai. Đến tháng 8.2012, TP.HCM đã tổ chức khánh thành giai đoạn 1 của dự án, trong đó thành phố đã thi công được hơn 9km tuyến cống bao có đường kính 2,5 – 3m, 36 giếng chính và 59 thiết bị tách dòng để thu nước dọc kênh; một trạm bơm có lược rác với công suất 64.000m3/giờ và các thiết bị phụ trợ; lắp đặt gần 16km bờ kè đứng; nạo vét 1.100.000m3 đất; gia cố 16 cây cầu dọc kênh; xây dựng 58km cống hộp và cống tròn; tái lập hơn 200.000m2 mặt đường. Ông Lê Bá Cần – bí thư Quận uỷ quận 1 Thuyết phục – đồng thuận là yếu tố quyết định! Tôi công tác trên địa bàn quận từ năm 1975. Hồi đó, còn là liên quận 1 (gồm quận 1, 3 và 10). Thực sự khi có chủ trương làm sạch kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, tôi rất phấn khởi, bởi tôi biết quá rõ về đời sống vất vả, thiếu vệ sinh của người dân sống dọc con kênh này. Bây giờ được như vậy là cả một quá trình, vì tính từ khi giải toả tới nay là gần 20 năm. Nói chung đây là một dự án lớn, nó giải quyết được vấn đề an sinh xã hội, riêng trên địa bàn quận 1 lúc ấy đã có 1.540 hộ nằm trong phạm vi phải giải toả, phải di dời, chưa tính các quận khác nữa. Trong đó, số nằm trên mặt nước chiếm phân nửa. Khi đó, người dân rất hoang mang. Trước việc người dân hoang mang như vậy, công tác vận động được tiến hành. Trước hết, trong hệ thống Đảng tổ chức quán triệt ngay trong Đảng bộ quận, rồi trong hai phường lớn nhất là Tân Định và Đa Kao. Nhiệm vụ chính trị của hai phường này rất nặng, trong thời điểm đó là phải làm sao giải toả được những người dân sống ven kênh Nhiêu Lộc trong điều kiện nhà tái định cư chưa có. Gần như cả hệ thống chính trị đều tập trung vào đây, từ quận cho tới phường, các đoàn thể, công an đều tập trung vào công tác vận động. Ở phường thành lập các tổ công tác, quán triệt đến các chi bộ có người dân sống ở đó. Làm được dự án này, theo tôi, là một kỳ công. Riêng quận 1, đến năm 1999 làm xong công tác đền bù giải toả, chỉ trong vòng năm năm hoàn thành đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận. Tất cả là nhờ công tác dân vận và sự đồng thuận cao từ phía người dân. Bằng chứng là dù phải giải toả đến 1.540 hộ, nhưng quận 1 không phải tiến hành cưỡng chế bất kỳ trường hợp nào. Bài học lớn nhất ở đây chính là sự đồng thuận của nhân dân. Bên cạnh đó là tâm huyết của lãnh đạo từ thành phố trở xuống. Chính tâm huyết này đã truyền từ người đứng đầu thành phố đến từng đảng viên trong chi bộ của từng khu phố. Đây có thể nói là một bài học kinh nghiệm quý giá trong vấn đề lãnh đạo và huy động sức dân. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét