Hôm
10.9, Nhật Bản đã quyết định quốc hữu hóa ba hòn đảo thuộc Senkaku. Chỉ
một ngày trước đó, bên lề hội nghị APEC tại Vladivostok, Chủ tịch Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào một lần nữa đã nhắc lại quan điểm của Bắc Kinh phản đối
việc Nhật Bản mua quần đảo này. Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố giải quyết
vấn đề Senkaku “từ tầm nhìn đại cục”.
Sự
quả quyết của phía Nhật Bản không thể không rút ra từ vụ “Tam Sa”. Và
theo cách này hay cách khác, cuộc xung đột Senkaku/Điếu Ngư sẽ tác động
đến cục diện ở Biển Đông.
Tàu huấn luyện Nhật Bản cập cảng Philippines tháng 5.2012 trong bối cảnh căng thẳng bãi cạn Scarborough
Nhật Bản coi đe dọa của Trung Quốc chủ yếu từ biển
Những
thay đổi tương quan lực lượng tại châu Á-Thái Bình Dương dưới tác động
sự trỗi dậy của Trung Quốc đã từng bước thay đổi cách tiếp cận của Nhật
Bản đối với các vấn đề Đông Nam Á/Biển Đông.
Là
một quốc gia hải đảo, Nhật Bản cần phải trở thành một cường quốc hàng
hải. Tuy nhiên trong nửa thế kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến
lược hàng hải của Nhật Bản chủ yếu phục vụ giao thương kinh tế. Những
năm gần đây, do lo ngại sức mạnh tăng nhanh của hải quân Trung Quốc,
chính sách quốc phòng mới của Nhật Bản, công bố tháng 12.2010, đã nhấn
mạnh nhu cầu thay đổi chính sách cách tiếp cận từ bị động sang chủ động,
linh hoạt và mang tính tấn công.
Chiến
lược hải quân Nhật Bản được quyết định bởi nhu cầu an ninh, kinh tế và
khoảng cách giữa các đảo chính của nước này. Môi trường địa chính trị
được thể hiện bằng các vành đai đồng tâm hướng vào các đảo chính của
Nhật Bản. Vành đai thứ nhất bao gồm biển Hoa Đông, biển Nhật Bản, một
phần biển Hoàng Hải và Bắc Thái Bình Dương. Nhật Bản coi đây là khu vực
ảnh hưởng trực tiếp đến Nhật Bản và về lịch sử, là cửa ngõ và nguồn gốc
của các mối đe dọa bên ngoài đối với nước này. Vành đai thứ hai, tập
trung chủ yếu vào Biển Đông - nơi vận chuyển tới 88% lượng hàng hóa của
Nhật Bản.
Đối
với tranh chấp Biển Đông, quan điểm của Nhật Bản từng bước điều chỉnh.
Ban đầu, Nhật Bản không biểu thị thái độ rõ ràng. Khi thách thức từ phía
Trung Quốc tăng lên, kim chỉ nam mới cho phòng vệ Nhật-Mỹ và “sự biến
xung quanh” được Hạ viện Nhật Bản thông qua năm 1999 đã cho thấy rõ ý đồ
của Nhật Bản mở rộng cơ chế bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ ra khu vực Biển
Đông. Điểm cốt lõi trong mối lo ngại của Nhật Bản cũng như Mỹ và các
nước lớn khác chính là việc Trung Quốc nỗ lực áp đặt một số quyền cấm
đoán đối với các lực lượng nước ngoài tiến vào khu vực Biển Đông. Việc
Trung Quốc xây dựng một lực lượng trên biển mạnh và tìm cách kiểm soát
Biển Đông là điều Nhật Bản không thể chấp nhận. Mặt khác, nếu Trung Quốc
giải quyết vấn đề Biển Đông thành công, họ sẽ có ưu thế trong vấn đề
quần đảo Senkaku và đấy cũng là điều Nhật Bản không thể chấp nhận.
Từ
thái độ “đứng ngoài quan sát” trước các hành động gây hấn của Trung
Quốc, Nhật Bản đã chuyển sang tăng cường can dự. Ngày 24.7.2010, tại Hà
Nội, trong buổi hội đàm giữa Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Gia
Khiêm và Ngoại trưởng Nhật Bản Katsuya Okada, hai bên đã đạt được nhận
thức chung về việc tiến hành đối thoại chiến lược Nhật-Việt; đồng thời
Ngoại trưởng Nhật Bản khẳng định “Nhật không thể không quan tâm tới vấn
đề Biển Đông”.
Nhật
Bản coi mối đe dọa của Trung Quốc chủ yếu từ biển, bởi vì các tuyến
đường hàng hải của Nhật Bản chạy song song với bờ biển kéo dài của Trung
Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông. Những tuyên bố và hành động của
Trung Quốc cho thấy họ thực sự muốn kiểm soát các tuyến đường biển quốc
tế và các nguồn tài nguyên ở vùng biển này. Khi thành công, họ sẽ đưa ra
các quy định về hoạt động của tàu và máy bay quân sự nước ngoài trên
Biển Đông. Điểm mấu chốt là cho dù Trung Quốc đưa ra cam kết tốt đẹp về
đảm bảo tự do hàng hải, các quyền kiểm soát hoàn toàn hoặc chủ quyền
lãnh hải bên trong “đường 9 đoạn” thực sự mâu thuẫn với lợi ích hàng hải
của tất cả các nước liên quan.
Nhật
Bản có mối quan tâm trực tiếp để đảm bảo rằng Trung Quốc không giành
thế độc quyền thương mại và hải quân ở khu vực này. Bên cạnh phối hợp
lập trường ngoại giao, tổ chức đối thoại hợp tác an ninh hàng hải với
ASEAN, chính quyền Noda tập trung hỗ trợ việc xây dựng lực lượng hải
tuần của Philippines. Đối với Nhật Bản, giúp người là tự giúp mình. Bởi
vì vành đai thứ hai ở Biển Đông hỗ trợ tuyến phòng thủ biển, khi nó phân
tán lực lượng quân sự của Trung Quốc đang tìm cách xâm nhập vào vành
đai phòng ngự hải quân thứ nhất bao quanh Nhật Bản và các đảo Senkaku.
Đồng thời, Nhật Bản tập hợp lực lượng nhằm mở rộng ảnh hưởng về chính
trị, kinh tế, cũng như tăng cường sự hiện diện và sức mạnh hải quân của
Nhật Bản.
Phát triển ngành công nghiệp quốc phòng tự chủ
Nhật
Bản, cùng với Mỹ, Ấn Độ, Australia và các nước khác ủng hộ giải pháp đa
phương. Ngày 9.7.2011, ba nước Mỹ, Nhật, Australia đã thực hiện cuộc
tập trận ba bên đầu tiên ở hải phận Biển Đông ngoài khơi Bruney. Đây là
hành động quân sự mang ý nghĩa tượng trưng. Thông cáo của phía Nhật Bản
cho biết cuộc tập trận chung này nhằm tăng cường khả năng chiến thuật
của hải quân Nhật Bản và củng cố mối quan hệ giữa hải quân ba nước. Giới
chuyên gia cho rằng hành động đó mang ý nghĩa phối hợp giữa ba nước
trong nỗ lực dài hạn ngăn chặn sự phát triển của hải quân Trung Quốc
vượt khỏi Biển Đông để ra Thái Bình Dương.
Đầu
tháng 7.2012, Nhật Bản và Philippines ký kết thỏa thuận hợp tác quốc
phòng và trao đổi quân nhân. Tokyo bắt đầu hỗ trợ Manila hiện đại hóa
Lực lượng tuần duyên Philippines. Tokyo và Manila thỏa thuận về dự án
Nhật Bản đóng 12 tàu tuần tra với nhiều trang thiết bị hiện đại.
Các
kế hoạch quân sự của Nhật Bản tính đến hai tình huống: Đáp ứng yêu cầu
là một bộ phận của liên minh quân sự Mỹ-Nhật với một chiến lược quân sự
thống nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mặt khác, Nhật Bản cũng
theo đuổi kế hoạch hành động riêng đề phòng trường hợp vì lý do chiến
lược nào đó mà Mỹ nghiêng về phía Trung Quốc, khi đó Nhật Bản không còn
dựa được vào chiếc ô an ninh và hạt nhân của Mỹ. Cuộc đại thảm họa động
đất và sóng thần ngày 11.3.2011 thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp
quốc phòng Nhật Bản. An ninh và kinh tế là những động lực của nỗ lực
mới này.
Vả
lại, một nước lớn, hay bất kỳ một quốc gia nào cũng vậy, dù dựa vào một
ô an ninh của ai đó, cũng không thể để mất khả năng chủ động về quốc
phòng và để mình rơi vào tình trạng bị bất ngờ chiến lược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét