Những tháng của nửa cuối năm 2013 này, sau những đêm thức trắng với vỉa hè góc phố Hà thành, tôi đã buốt lòng gặp phải những cảnh đời tăm tối, khổ ải dưới mức có thể hình dung cho một kiếp người.
Bà Nguyễn Thị Loan ở bốt Hàng Đậu.
Họ,
có người hai ba chục năm ngủ đầu đường xó chợ, gầm cầu bến xe, chịu gió
sương vùi dập, rồi nỗi đời đen bạc ức hiếp nhục nhằn vùi dập thêm thêm
nữa - họ đã buộc tôi phải cảm nhận khác về một Hà Nội lầm than còn nhiều
day dứt lắm…
Bà cụ ngồi trên vỉa hè, phóng uế vào túi nylon
Có
đêm, ngồi bên những ông cụ râu bạc nằm vếch lên trên vỉa hè con phố ướt
mưa lạnh, có ngày, ngồi ở vườn hoa Hàng Đậu bần thần với bà cụ xếp quả
xoài lên cái đĩa nhựa, xiên xiên cắm que nhang ẩm vào kẽ bêtông của bốt
Hàng Đậu để… tưởng nhớ chồng, tôi thấy râm ran xấu hổ.
Tôi
giúp gì được cho họ không, chúng ta hào nhoáng xa hoa ở đẩu ở đâu, để
rồi những cảnh này vẫn âm thầm diễn ra mỗi ngày, mỗi “đêm dài lắm mộng”
của bà con mình?
Bà
cụ thờ chồng ở vỉa hè xó phố ấy là Nguyễn Thị Loan, tuổi khoảng 80. Ông
Chí Thành - chồng bà - là một cựu binh đánh trận Điện Biên Phủ năm xưa.
Rồi hai vợ chồng người con trai và mấy đứa cháu chết cùng lúc do lũ
quét ở Tây Bắc. Còn lại anh con trai cả thì cướp đất, phụ công dưỡng dục
của ông bà. Tức quá, ông bảo: một là bà ở với nó, hai là bà ở với tôi,
bà chọn đi. Tôi sẽ bỏ căn nhà này (xã Minh Đức, tỉnh Hải Dương), lên Hà
Nội, tôi ở xó đường góc phố còn đỡ nhục hơn ở với thằng mất dạy. Bà Loan
bảo, tôi chọn ông.
Thế
là đeo vòng nhà Phật, cầm cuốn Kinh Phật, xách hai cái làn nhựa, ông bà
cất bước ra đi. Gần 10 năm lang thang ở khu chợ Đồng Xuân, khu Quán
Thánh, rồi dạt về Hàng Đậu, ông bà cứ lịch sự ăn vận tử tế, sống bằng
của bố thí của người đời. Cách đây hơn 1 năm, ông Thành chết, bà đưa ông
về quê an nghỉ. Qua tuần tứ cửu (49 ngày), đặt cái ảnh thờ ông trong
làn nhựa, bà lại lên Hà Nội.
Nghe
chuyện bà Loan kể cứ như chuyện bịa, như chuyện do cái lẫn của tuổi già
sinh ra. Chúng tôi phải về xác minh tại Công an xã Minh Đức, thì ôi
thôi, cảnh đời ông bà còn éo le hơn cả những gì đã kể ở trên. Có lần,
tôi buột miệng: “Bà ơi, bà bằng tuổi bà cháu, cháu hỏi thật mà không
ngại ngùng nhé: bà ngủ vỉa hè, thế còn nấu nướng, tắm rửa, đại tiểu tiện
thì tính sao?”.
Bà
Loan vừa lục cái làn nhựa, vừa lẩm bẩm: Đi bộ lóc cóc, dỡ ảnh ông ấy ra
để thắp nhang cho đỡ nhớ, thế là vỡ béng mất cái khung kính rồi. Tiền
cháu cho hôm nay, bà sẽ mua kính về lắp lại “gương mặt” cho ông Thành.
Còn đáy làn này là 3 cái nồi bé, bà lấy cành cây, lấy giấy báo nấu cơm,
rán tóp mỡ, kho thịt ngay ở vườn hoa này. Nấu một bữa ăn ba bữa cho
tiện. Trời mưa thì mặc áo mưa mà ngủ, mặc thế bí hơi, nhưng tiện lắm:
vừa tránh được mưa lại vừa tránh rét.
Bà Loan và ảnh thờ cụ ông để trong chiếc làn nhựa.
Còn
đi tiểu đại tiện thì đã có… túi nylon. Bà trùm chăn, “đi” vào túi bóng,
vứt ra thùng rác là xong. Cũng có khi thuận tiện hơn thì ngay bên đường
kia có cái cô bán nước chè và cháo gà suốt đêm. Cô ấy hay cho ông bà
vào khu ấy tắm nhờ, “đi” nhờ. Hôm ông Thành ốm quá, cô ấy còn tử tế lắm
nấu cho ông nồi cháo gà.
Tốt
bụng nhất vẫn là vợ chồng nhà bác bán mũ bảo hiểm bên kia đường. Bao
năm nay, bà và ông Thành nằm nhờ, rồi ông chết, một mình bà vẫn cứ nằm
đó, họ thương hai người lắm. Họ còn quét hiên nhà cho chúng tôi nằm. Chỉ
khổ nỗi, mũ bảo hiểm dạo này tự dưng bán chạy, có khi 12 giờ đêm họ mới
dọn hàng đóng cửa, lúc đó ông bà từ bên bóng tối góc này mới dám lò dò
sang. Trải nylon trên nền gạch rồi, nhưng cũng đã ngủ được ngay đâu? Hà
Nội ầm ào lắm, xe cộ chạy nhức cả óc, phải đến khuya tĩnh lặng hơn rồi
mới ngủ được chứ…
Còn
bà Trần Thị Sâm gần 80 tuổi, quê ở Bình Lục, Hà Nam thì bị lẫn, ngày
nào cũng đi quanh quanh ba sáu phố phường, rồi hỏi thăm tìm mãi mới về
được khu gần chợ Đồng Xuân hoặc phố Hàng Chiếu mà mình tá túc, ai cũng
lo bà chết ở góc phố nào đó mà không được an táng ở quê nhà. Cuộc sống
đầu đường xó chợ theo đúng nghĩa đen của những người già như bà Loan có
vẻ lành lẽ hơn những người phụ nữ còn trong tuổi sinh nở, những người
đàn bà lang thang ở tuổi ấy còn bị không ít gã đàn ông thèm muốn, khổ
thế!
Bốn lần “chuột chạy vào bụng” sinh ra 4 đứa con “không có bố”
Khi
chúng tôi vào Trung tâm Bảo trợ xã hội 4 (thuộc Sở LĐTBXH Hà Nội) đóng
trên địa bàn Ba Vì, Hà Nội, ông Bằng (Giám đốc) và bà Ngọc (Phó Giám
đốc) đều chua xót kể về chuyện của người lang thang tên là Trần Thị Mơ
(SN 1964, người dân tộc thiểu số ở huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang). Bao
năm làm công tác bảo trợ xã hội, chứng kiến bao cảnh khổ sở “trần đời có
một” rồi, nhưng chuyện chị Mơ vẫn làm họ choáng.
Chị
Trần Thị Mơ sau thời gian lang thang vỉa hè quán chợ đã bị “vô tình”
sinh ra tới 4 đứa con. Nay 5 mẹ con chị ở tại Trung tâm bảo trợ xã hội
Ba Vì, Hà Nội.
Bị
“thu gom” về trung tâm cách đây vài năm, chị Mơ (còn có tên là Duyên)
dắt theo 4 đứa con. Chị bảo, mỗi đứa là con của một gã khác nhau. Gã nào
cũng “hú hí” với chị lúc chị nửa tỉnh nửa mê, lúc lê la đầu đường xó
chợ. Đứa lớn thì kể về bố của đứa bé với những ký ức rời rạc, ý rằng
hình như cháu có gặp họ một lần. Còn bản thân mỗi đứa chưa bao giờ biết
mặt bố, bởi có “ông” thậm chí không biết mặt chị Mơ và chị Mơ cũng không
biết mặt “ông” ta. Nó là thứ tình dục bẩn thỉu, có thể là hãm hiếp hoặc
trộm tình, trộm dâm trong đêm vắng “quán trọ lều quê”, hoặc có thể là
sự đồng thuận bản năng - điều đó cũng chẳng thể loại trừ.
Khi
nghe cán bộ trung tâm kể lại chuyện đời mình với nhà báo như vậy, chị
Mơ ngơ ngẩn cười cười bảo: “Nó cũng như nửa đêm có con chuột chạy vào
bụng mình, ít lâu sau là mình đẻ thôi mà. Có “ông” thì “gặp” ở chỗ cái
cột đèn gần ngã tư công cộng, trung tâm thành phố Bắc Giang, ông thì gặp
ở gầm cầu Hà Nội. Họ đến rồi đi trong bóng tối…”.
Chị
Mơ nhận mình là người dân tộc Sán Dìu, cũng có lúc chị nhận mình là
người Kinh. Cán bộ đi xác minh thì được tin là huyện Sơn Động không có
cái xã nào như chị Mơ khai. Hành trình của chị Mơ được hồ sơ ghi rõ:
“lang thang ăn xin”. Và theo thói thường thì người từ Sơn Động sẽ dạt
lên huyện, lên nơi đô hội ở tỉnh, rồi dạt tiếp về nơi đô hội của quốc
gia, ấy là Hà Nội. Nên việc đứa con đầu tiên của chị sinh ra bắt đầu từ
đêm tối nằm vỉa hè gần cái cột đèn thành phố Bắc Giang (như chị kể) cũng
là… không có gì đáng ngạc nhiên.
Bốn
đứa con chị Mơ, có đứa học không thể vào đầu được một chữ nào, có đứa
đưa ra trường Tây Đằng (nơi trung tâm bảo trợ tọa lạc) học, thì toàn
tiên tiến với giỏi. Giám đốc Bằng chua chát bảo: những “ông” sau ăn nằm
với chị Mơ, có vẻ giỏi giang hơn cái ông “đụng chạm sinh con” hồi ở huyện ở tỉnh.
Dẫu
sao số phận chị Mơ còn có mẹ có con, có trung tâm của Nhà nước nuôi
dưỡng phần đời còn lại. Còn cuộc đời chị Nguyễn Thị Mai (Ý Yên, Nam
Định), mỗi lần xem lại… các bức ảnh, nghe lại các băng ghi âm chị rủ rỉ
tâm sự trong đêm trường phố cổ Hà Nội đều làm tôi ứa nước mắt. Chị cứ
tông tốc kể hết phận đời của chị. Chị bị bệnh xã hội hiểm nghèo, người
quắt như con cá mắm, cũng chả còn gì để mất nữa.
Quê
ở Nam Định, 14 tuổi đi bế em thuê cho nhà người ta, điện cao thế bị
đứt, có người bị giật, cô bé Mai xông vào cứu. Điện giật “bắn” ra tít
góc vườn. Sợ quá, cô bé bỏ xứ lên Hà Nội lang thang cùng mẹ đẻ. Mẹ Mai
trốn nhà đi ăn xin, vì hận ông chồng bạc nghĩa. Mai đi rửa bát thuê cho
nhà hàng cơm trong phố cổ. Thân hình cô phổng phao lúc nào không biết.
Mai nói dối nhà chủ là thuê trọ ở xa, thật ra cô bé vẫn cuộn chăn nằm ở
chỗ chợ Đồng Xuân tá túc qua ngày. Một hôm, đứa em họ nhà bán hàng cơm
theo dấu của Mai, tìm ra cái ổ Mai hay nằm.
“Hôm
đó, chị bị sốt cao - Mai kể - nó đến, cầm theo một con dao và một gói
xôi. Nó lật cái chăn ra xem có đúng là cái mặt chị không, rồi nó dí con
dao vào cổ và… Bên cạnh chỗ chị nằm có hai đứa vô gia cư khác đang cuốn
nhau trong một cái chăn chiên, chúng nó nhìn thấy, nghe thấy tiếng chị
kêu mà không mảy may đả động gì. Còn thằng kia, trước khi bỏ đi nó còn
để lại cho chị gói xôi, chị oán giận ông trời, oán giận thằng khốn nạn
ấy, nó thỏa sức hiếp chị, coi chị chỉ đáng một nắm xôi thôi ư? Còn lũ
chó đực chó cái nằm bên, nó mặc kệ, cả cái thú tính trong hành động và
thú tính trong lòng người đã ném đời chị vào vũng bùn từ hôm ấy…”.
Dạo
này, tôi hay đi với anh Bờm (tức Tiêu, người Mê Linh, Hà Nội) – “chồng”
hiện tại của chị Mai. Họ hay cãi nhau, vì cả hai đều bị bệnh xã hội,
coi thường nhau, chửi đánh nhau, nhưng rồi vẫn dạt vào nhau để cùng đi
nhặt rác bán lấy tiền cho “qua ngày đoạn tháng”.
Anh Tiêu trong đêm Hà Nội. Anh sống ở vỉa hè bến xe, gầm cầu góc chợ đã mấy chục năm.
Có
hôm tôi mang chút quà đến, thấy cửa chợ Cầu Đông, cạnh các loại bảng
hiệu nội quy có mấy đùm cơm, canh, cà pháo đựng trong túi nylon treo
trên những chiếc đinh dọc bờ tường. Anh Bờm ngọt ngào: “Mai nó xin đâu
được, treo đấy đợi tôi đi vác bao bì cáctông này về thì ăn. Nhưng tôi
chả muốn ăn. Tập kết “hàng” ở đây, mai đi “cân” (bán) sớm”.
Chị
Mai bảo, bị hãm hiếp rồi cuộc sống vùi dập đủ kiểu chị không muốn kể
làm gì, chỉ biết kết quả là chị bị giang mai nặng, giờ nó biến chứng lên
tận cổ, đau đớn, hạch nổi. Rồi… các bệnh khác nữa. Suốt ngày sốt, đau.
Uống thuốc chống giang mai bằng kháng sinh liều cao cũng không thể khỏi,
uống nhiều vào thì người nó cứ say say như người đang phê thuốc phiện
ấy.
Ông
tổ trưởng dân phố ở nơi chị Mai tá túc suốt gần ba chục năm qua cho
biết: Ông Bờm này dễ đến là chồng thứ… 10 của Mai rồi. “Người lang thang
không bao giờ làm nghề mại dâm, Mai cũng thế, nhưng ai có nhu cầu và
vẫy tay rủ thì Mai vẫn “đi khách” kiếm thêm. Việc “gom” Mai vào trung
tâm bảo trợ xã hội rồi lại thả ra, cứ như bắt cóc bỏ đĩa bao năm nay.
Ngủ truồng và tắm truồng giữa “ba quân tướng sĩ”
Người
ta bảo, chị Mai như người trên trời rơi xuống, có sức chịu đựng và khả
năng… trơ lỳ kinh khủng. Sau thời xuân sắc bị vùi dập hoặc tự vùi dập
sau khi đã tha hóa, giờ chị Mai có thể nằm ở gầm cầu khai mù nước tiểu,
có thể chống lại những tháng ngày Hà Nội nóng nực nhất bằng cách cởi bỏ
hết áo quần, trần truồng ngủ ở trụ điện, vỉa hè, ghế đá… chỉ với tờ báo
áp trên bụng.
Anh Tiêu tại chợ Cầu Đông, nơi anh “đóng đô” đã nhiều năm. Trên bờ tường là các túi cơm, canh mà chị Mai xin về cho chồng ăn.
Chị
Mai bộc tuệch: “Chị ngủ trần truồng, áp tờ báo lên… ngực để che một tí
gọi là có thôi. Chứ nằm giữa giời mà mặc quần áo thì nóng lắm. Lúc ngủ ở
gầm cầu thì chị cứ phải đi xin nước rửa bát rồi xách nước sông Hồng lên
cọ các trụ bêtông, bởi lũ khốn nạn đái bậy nó “phóng” ra khai lắm. Lúc
tắm, thì chị cứ tắm truồng.
Mùa
hè thì dễ, mùa đông lạnh cắt da cắt thịt, mình bị lậu, giang mai, phải
tự chăm sóc, bận bịu như có con mọn ấy, không tắm rửa ngâm tẩm kỹ là nó
đau nó ngứa. Mà tắm trong khi trời dưới 10 độ thì chết cảm có ngày! Chị
bèn ra chỗ chợ Long Biên, ở đó có những kho đông lạnh, nước thải của nó
rất ấm. Chị cứ trần truồng hứng nước ở đó mà tắm. Người ta lúc đầu còn
cười chê, dòm ngó, giờ quen rồi. Đời dạy chị phải biết trơ để sống sót
em ạ!”.
Đêm
đen kịt, đèn đường cũng hết vàng vọt, phố xá im lìm. Phố Hàng Chiếu còn
sót lại vài mụ sồn sồn bán thuốc kích dục hoặc dụng cụ “trác táng” nọ
kia. Chị Mai, anh Tiêu (Bờm) thụt đầu vào chăn chiên ngủ. Họ tráo đầu
đuôi, cả hai đều đổ cho nhau có bệnh xã hội nặng, giờ họ không “chồng
vợ” nữa, nhưng vẫn nằm cạnh nhau. Cụ Sâm, cụ Loan cũng ngủ vùi sau một
ngày hít bụi vỉa hè và lang bạt kỳ hồ kiếm ăn.
Những thảm cảnh vô gia cư, “màn trời chiếu đất” ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Long
Cái
góc Hà Nội lầm than ấy chỉ còn Tươi là thắc thỏm, cô mới ngoài ba mươi
tuổi. Đứa con đen trũi, bé như quả bí ngô tên là “Tý nhỏ” (phân biệt với
chị nó là “Tý lớn”) đang ngồi trong lòng cô, cô sợ bé gái ấy bị bắt
cóc, bị… kẻ xấu tấn công. Bố “vơ với” của một trong hai đứa con hoang
của Tươi phạm tội giết người đã lĩnh án. Tươi bị những người vô gia cư
cùng cảnh ngủ ven đường tố cáo là “giang hồ”, nữ quái “bẻ khóa” có hạng.
Kệ người ta đồn, như bản năng trời phú cho các con cái khác, Tươi
thương con đứt ruột. Trong đêm, cô lăm lăm thủ thế bảo vệ con.
Chúng
tôi chỉ dám phỏng đoán, còn thực tế Tươi kiếm ăn bằng cách nào thì chỉ
cô mới biết rõ. Nhưng khi nhìn thấy hình ảnh này của mẹ con Tươi thì
thật khó lòng diễn tả nổi xúc cảm: Tươi đặt con trong cái thùng xốp,
buộc thùng lên gác ba ga xe đạp dắt đi bát phố, trên xe, bé gái nhỏ xíu
thò đầu ra ngơ ngác, bìa thùng xốp Tươi viết chữ rất to: “Cẩn thận! Xe
có trẻ nhỏ, xin tránh đường, xin cảm ơn!”…
Các
bé gái con của Tươi với các ông bố “đầu đường xó chợ” kia, rồi chúng sẽ
ra sao? Chúng ta sẽ làm gì cho đời của những bà cụ vất vưởng lẫn cẫn
gầm cầu bến xe kia bớt lầm bụi nhục nhằn? Chúng ta nên làm gì vì mỗi
mảnh đời tận khổ nhiều hơn, thay vì thỉnh thoảng “dọn sạch phố phường”
bằng cách đưa người đi “thu gom” họ lại, nhốt vào trung tâm bảo trợ hay
cái gì đó tương tự ít ngày rồi thả ra theo kiểu “bắt cóc bỏ đĩa”? Nếu ta
làm thật sự, làm tốt công việc này, chắc chắn chị Mai và nhiều người vô
gia cư khác sẽ không có một “nẻo về” đau đớn như tôi đang thấy hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét