Đền
Tiên Hạ hiện toạ lạc tại số nhà 46 ngõ Phất Lộc, phường Hàng Buồm, quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa nơi đây thuộc giáp Tiên Hạ, phường
Đông Các, huyện Thọ Xương, sphủ Hoài Đức của Thăng Long.
Phất
Lộc là tên một làng cổ ở huyện Đông Quan, tỉnh Thái Nình. Vào thế kỷ
XVIII năm Đinh Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) có một người họ
Bùi đã đến Thăng Long theo học trường Quốc Tử Giám rồi ở lại luôn tại
đây. Sau đó người làng cũng theo lên, dần dân thành một ngõ toàn dân
làng Phất Lộc, do đó mà tên làng thành tên ngõ. Bùi Tú Lĩnh người soạn
văn bia đình Thanh Hà là người thuộc dòng dõi này.
Đền
Tiên Hạ thờ Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370), nguyên có tên là Cốt, tự
là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Ân Thi,
tỉnh Hưng Yên. Thủa nhỏ ông nổi tiếng là thần đồng. Ông đã từng làm thơ
giới thiẹu về minh không khỏi có phần tự phụ:
Giới Hiên tiên sinh tái long miếu
Có chí nuốt trâu từ niên thiếu
Tuổi mới mười hai thái học sinh
Vừa đến mười sáu dự thi đình
Hai mươi bốn tuổi làm quan gián
Hai mươi sáu tuổi sứ Yên Kinh.
Sự
thực đúng như thế: đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long thứ
12 (1304), ông được các vua Trần sử dụng và đã tỏ ra có năng lực toàn
diện; đã làm quan trị nhậm ở nhiều nơi: An phủ sứ Thanh Hoá, Kinh lược
sứ ở Lạng Giang, đều nổi tiếng có tài chính ự. Ông cũng từng theo các
nhà vua ra trận, đánh Ngưu Hống, đánh Ai Lao, mài sườn núi ghi chiến
công. Hồi làm Tào viện sứ ở Khoái Châu, ông có kế hoạch đạt kho Tào
thưởng chứa thóc để chấn cấp cho dân đói, vua Trần xuống chiếu cho các
lộ trong nước phỏng theo các ông mà làm ở địa phương mình. ông cũng
thành thạo về luật pháp, dựng nhà Bình doãn xử kiện, không ai bị xử oan
hoặc bị xử quá nặng so với tội của mình. Chính công đã cùng với Trương
Hán Siêu biên soạn bộ “Hoàng Triều đại điển” và khảo soạn bộ “Hình Thư”
để ban hành. Nguyễn Trung Ngạn có khả năng kiêm quản nhiều việc một
lúc: năm 1332, ông vừa phụ trách việc thẩm hình trong triều, lại vừa làm
An phủ sứ Thanh Hoá; năm 1337 vừa phụ trách Viện Quốc sử, lại vừa làm
An phủ sứ Nghệ An. Khi được nhận công tác ngoại giao, ông đx giữ dúng
phép tắc để giữ gìn quốc thể. Năm 1324, vua Nguyên sai Mã Hợp Mưu, Dương
Tông Thuỵ sang báo tin lên ngôi. Bọn chúng đi lại nghênh ngang hống
hách bị Nguyễn Trung Ngạn lấy lý lẽ bẻ lại. Hợp Mưu đuối lý phải xuống
ngựa bưng chiếu đi bộ. Vua rất hài lòng. Trải thờ 5 triều vua, bàn luận,
tâu bày phần nhiều bổ ích, văn chương, sự nghiệp nổi tiếng một thời.
Suốt mấy chục năm đảm nhiệm các trọng trách, cuối cùng Nguyễn Trung Ngạn
được giữ vị trí cao nhất trong triều: Đại hành khiển, Thượng thư hỡu
bật, Đại học sĩ, Trụ quốc khai huyện bá, Thân Quốc công. ông là một nhà
chính trị và nhà văn có tài. Tập thơ của ông được chép toàn bộ trong “Toàn bộ thi lục” của Lê Quý Đôn. Phan Huy Chú khen thơ ông hùng hồn, mạnh mẽ, có phong cách của thơ Đỗ Phủ. Tác phẩm được góp lại trong “Giới Hiên Thi Tập”.
Ông
hưởng thọ 82 tuổi. Sau khi ông mất, nhà vua vô cùng thương tiếc, đã cho
tổ chức tang lễ trọng thể, phong cho ông làm Thượng đẳng phúc thần và
cho phép các nơi lập đền thờ.
Trải
qua thời gian dài tồn tại, ngôi đền đã được trùng tu sửa chữa nhiều
lần, trong đó phải kể đến lần trùng tu lớn vào năm Bính Dần, Tự Đức 19
(1866) đã được văn bia ghi lại. Các công trình kiến trúc của đền được bố
cục theo kiểu chữ “Công” (I). Từ ngoài vào gồm các công trình sau: cổng
đền là một kiến trúc nhỏ hơn kiểu vòm cuốn, trên đỉnh là một nậm rượu,
hai bên xây hai cột đồng trụ, đỉnh trụ trang trí búp sen. Qua cổng là
một sân nhỏ lát gạch Bát Tràng. Phía trong sân là khu thờ tự gồm: tiền
tế, nhà cầu và hậu cung. Các kiến trúc này được khuôn lại trong hệ thống
tường bao. Tiền tế là một lớp nhà một gian hai dĩ, làm theo kiểu dầu
hồi bít đốc tay ngai, kết cấu bộ khung gỗ nhà tiền tế gồm 4 vì được làm
theo kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị” các thanh xà, rường, hoành,
kẻ, được bào trơn, bào soi. Nhà cầu gồm 1 gian có hình vuông, trần nhà
được bưng kín bằng ván gỗ. Phần kết cấu gỗ được đặt trên 4 cột xi măng
vuông 20 cm x 20 cm. Hậu cung gồm một gian hai dĩ chạy ngang. Các bộ vì
đỡ mái làm theo kiểu quá giang trụ trốn, bào trơn. Chính giữa hậu cung
xây một bệ gạch caco 80 cm, phía trên bài trí hai bộ long ngai bài vị
thờ thần, được đặt trang trọng trong khám thờ chạm rồng.
Hiện
nay tại di tích còn lưu giữ bộ di vật văn hoá có giá trị lịch sử và
nghệ thuật như: hoành phi, câu đối, long ngày, bài vị, khám… Đặc sắc
nhất là hệt hống bia đá, gồm 5 tấm, trong đó có tấm bia: “Tiên Hạ linh
từ trùng tu bi ký” lập năm Bính Dần niên hiệu Tự Đức thứ 19 (1866).
Một
điều đáng chú ý là tại đây, trong những ngày đầu của cuộc Toàn quốc
kháng chiến đã là nơi huấn luyện 72 tiểu đội trưởng đầu tiên của Liên
khu I Hà Nội và ngõ Phất Lộc đã đứng vững cho đến tận đêm Trung đoàn Thủ
đô được lệnh rút quân ra khỏi thành phố.
Con
đường rút bí mật và an toàn nhất được vạch ra là đường qua gầm cầu Long
Biên đến Bãi Giữa, vượt qua lạch bên kia sông Hồng sang vùng tự do Đông
Anh, Phúc Yên. 18 giờ, ngày 17 tháng 2 năm 1947, các tiểu đoàn của
Trung đoàn Thủ đô từ đền Phất Lộc lần lượt hành quân ra “Cột đồng hồ”
vượt đê sông Hồng, qua cầu Long Biên đi về hướng bắc. 5 giờ sáng ngày 18
tháng 12 năm 1947, trung đoàn lần lượt qua sông do 20 chiếc thuyền của
đồng bào bí mật chở mà địch không hề hay biết.
Đến
với di tích đền Tiên Hạ, chúng ta không chỉ có dịp tìm hiểu, nghiên cứu
về danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn ở thế kỷ XIII, XIV mà còn được
biết thêm về một địa danh lịch sử góp phần làm nên chiến công 60 ngày
đêm mở đầu cho cuộc Toàn quốc kháng chiến ở thủ đô Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét