Chùa
có tên chữ là Thiên Sơn. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614)
đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “đại công đức
Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền
cao, dáng bề thế, cổ kính.
Bồ
Đề hiện nay là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Việt
Nam. Sở dĩ gọi là “Bồ Đề” vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi
bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở
trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông.
Chùa Bồ Đề còn có tên gọi là Thiên Sơn tự.
Chùa toạ lạc tại thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ Bắc cầu
Chương Dương khoảng 500m về hướng Nam, nay thuộc quận Long Biên, thành
phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm
bọc, cưu mang trẻ mồ côi.
Tương
truyền chùa được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây
thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: "Vua làm
lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên,
hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì". Dinh
được gọi tên là dinh Bồ Đề vì lúc ấy trong khuôn viên có hai cây bồ đề
to. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có
chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ "Đại công đức Bồ Đề" của vua Lê
Thái Tổ.
Thế
nhưng, cũng có nhiếu ý kiến cho rằng chùa được xây từ cuối đời nhà
Trần, trên một gò đất cao gọi là Núi Trời (nên còn có tên gọi là Thiên
Sơn). Sau này, do bị chiến tranh tàn phá nên năm 1614, chùa được trùng
tu tôn tạo trên nền chùa cũ và công đức khắc in vào hai quyển Pháp Hoa
kinh để lưu hành. Đến giữa thế kỉ XVIII, chùa lại tiếp tục bị chiến
tranh huỷ hoại.
Năm
Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất
Thiết đại sư (1835 - 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên
nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới,
chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.
Đầu
thế kỉ XX, chùa Bồ Đề trở thành trung tâm đào tạo tăng ni của thành phố
Hà Nội, trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hoà thượng Thích Trí
Hải đảm trách. Năm 1946, Pháp trở lại gây chiến, trung tâm đã dời đi nơi
khác.
Năm
1951, thành phố bị lũ lụt lớn, chùa bị sạt lở, chỉ còn lại toà thượng
điện. Năm 1971, chùa một lần nữa được trùng tu như kê kích lại toàn bộ
thượng điện và xây dựng lại hậu cung phía sau, nâng cao nền chùa. Năm
1986, chùa được trùng tu nhà Tổ, hậu liêu, nhà khách, nhà Tăng, nhà bếp
cũng như khu vực nhà ở của hơn 50 cô nhi đang được nuôi dạy tại chùa.
Năm 1999, chùa tiếp tục xây lầu bát giác và tôn trí tượng Bồ Tát Quan
Thế Âm cao 3,2m.
Hiện
nay, chùa là mái ấm tình thương dành cho các em bé mồ côi, cơ nhỡ, đồng
thời cũng là điểm tham quan thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét