Chùa Quảng Bá thuộc xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Chùa Quảng Bá là một ngôi chùa được xây dựng từ lầu đời. Văn bia ghi tên cũ của chùa là Long Ân, do công chúa tiền triều tên húy Ngọc Tú dựng nên, vào năm Mậu Thìn đời vua Lê Vĩnh Tộ (1628). Đời vua Minh Mạng năm thứ hai, Thánh tổ đổi tên là Sùng Ân, đời Thiệu Trị 2 đổi tên là Hoàng Ân và hiện nay mang tên “Hoàng Ân tự”.
Hiện nay ở chùa chưa tìm được dấu vết khởi dựng từ xa xưa. Căn cữ vào tấm bia có niên hiệu Vĩnh Trị 2 nói rằng chùa xây dựng năm 1628. Cùng với kiểu dáng kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng, hoa văn trang trí, ta có thể biết chùa được xây dựng vào thế kỷ 17. Chùa được tu sửa lớn vào những năm 1844, 1923.
Chùa Quảng Bá do các thiền sư thuộc thiền phái Tào Động trụ trì.
Chùa Quảng Bá gồm có: Vườn, chùa chính, nhà Mẫu, hành lang, tăng phòng, nhà tổ, gác, khu phụ, vườn tháp.
Chùa chính (tiền đường và hậu cung) gồm 5 gian, lợp ngói ta, bờ nóc và bờ dải chạy thẳng, chính giữa đắp hổ phù đội mặt trời. Trước hiên là hai cột trụ biểu, trên nóc đắp hình búp sen. Kiến trúc chùa chủ yếu làm theo lối bào trơn đóng bên với hình thức chồng giường con nhị kèo ngồi xa nách. Gian giữa có hệ thống cửa bức bàn. Các mảng chạm kỹ lưỡng với với những mảnh chạm điển hình của Huế. Nền chùa và hậu cung lát gạch Bát Tràng. Hậu cung 3 gian xây liền vào tiền đường, tạo cho mặt chùa chính có dạng chuôi vồ. Nhà Mẫu, nhà khách, nhà tổ kết cấu đơn giản, vùa phải, không rườm rà.
Chùa Quảng Bá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý. Gồm có chuông đồng, ( Quả chuông lớn cao 1,50 mét, đường kính 0,80 m đúc thời vua Lê Hiển Tông (1743). Vai chuông khắc 4 chữ nổi “Long Ân tự chung”. Thân chuông chia làm 4 múi, mỗi múi có 3 tượng nổi, cộng có 12 tượng tiêu biểu cho 12 tháng trong một năm. Chuông được treo ở góc phải nhà đại bái); 33 tấm bia từ thế kỷ thứ 19 đến thế kỷ 20; 30 pho tượng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Hệ thống tượng tròn của chùa khá đầy đủ với những pho tượng có giá trị nghệ thuật cao, như: Quan Âm Nam Hải tạc vào thế kỷ 17 - 18, các pho tượng Tam Thế, A Di Đà được làm vào thế 17 - 18. Tượng Di Lặc là một trong những tượng đẹp nhất của chùa, tượng ngồi tự nhiên, nét mặt tươi cười hoan hỉ, v.v…
Vường tháp của chùa là nơi an táng các vị hòa thượng. Đặc biệt có tháp của hòa thượng Phạm Ngọc Đạt, hiệu Bình Lượng Giác Minh, viên tịch 3 - 1968 tại Hà Nội, là ân nhân của Hồ Chủ tịch khi người còn hoạt động bí mật ở Thái Lan. Trong thời kỷ kháng chiến chống Pháp, chùa là cơ sở cách mạng, nhà tổ còn dấu vết của hầm bí mật, gác cao của nhà chùa là địa điểm quan sát rất thuận lợi trong những lần cán bộ hội họp, các nhà sư hết lòng giúp đỡ cán bộ.
Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 2.10.1991.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét