Đền
Hương Nghĩa ở số nhà 13 Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội. Xưa kia, đây là thôn Hương Bài (thôn Hương Bài sáp nhập với thôn
Kiên Nghĩa thành thôn Hương Nghĩa) thuộc tổng Tả Túc, sau này là tổng
Phúc Lâm.
Đền
Hương Nghĩa thờ Cao Tứ và vợ là Phượng Minh công chúa. Cao Tứ là em Cao
Lỗ - người sáng chế ra nỏ thần giúp vua Thục An Dương Vương. Cao Tứ
sinh ngày 10 tháng giêng năm Đinh Hợi thời vua Hùng Vương thứ 18. Ông
là người tinh tú, sức khoẻ hơn người. Khi vua An Dương Vương mở khoa
thi tại Cổ Loa ông đã ứng thí. Văn võ toàn tài được vua phong: “Trấn thủ
Đại La thành” sau đổi thành Thăng Long.Cao
Tứ giỏi võ nghệ, làm tướng dưới thời vua Thục, đóng quân ở khu Hương
Bài, Hương Nghĩa trên bờ sông Tô Lịch và được vua gả con gái là Phượng
Minh công chúa. Cao Tứ lập hành cung ở Hương Nghĩa, ông chỉ huy quân
thuỷ chống lại quân Tần và đã chiến thắng vẻ vang. Khi Triệu Đà xâm lược
nước ta, Cao Tứ đã được phong làm Thuỷ đạo tướng quân lập 5 đồn trên
sông Tô Lịch chống lại quân Triệu Đà trong suốt 7,8 năm trời, quân Triệu
Đà đã bị thua. Khi ấy, Trọng Thuỷ lợi dụng việc hoà hiếu gửi rể An
Dương Vương rồi đánh cắp nỏ thần đem về nước, sau đó lại đem quân sang
cướp nước ta. Cao Tứ được lệnh dàn quân trên sông Tô Lịch, chống lại
quyết liệt và tử trận. Công chúa Phượng Minh sau khi biết tin chồng mình
hy sinh, tự trẫm mình ở sông Bắc Giang để giữ trọn khí tiết, chung thuỷ
với chồng.
Về
sau, hai ông bà được nhà vua ban sắc phong tặng, cho phép dân làng
Hương Nghĩa lập đền thờ phụng. Tấm bia “Hương Nghĩa đình công đức bi”
được tạo tác vào tháng 10 năm Quý Mùi niên hiệu Bảo Đại năm 1943 viết
“Ca ngợi công đức, mưu lược tài năng của thần Cao Tứ được các Hoàng đế
phong mỹ tự, muôn dân tôn sùng. Thời gian gần đây, đình bị đổ nát nên
đại thần toàn quyền Pháp cho phép tu sửa để việc thờ cúng được tinh
khiết. Nên toàn dân cùng cựu kỳ mục bản đình là Lưu Văn Năm chánh hội
Tân Đinh Nhi triệu tập mọi người góp sức trùng tu đền to đẹp để làm sáng
tỏ những điều tốt đẹp từ thời Hùng Vương để nơi đây lại được linh
thiêng, muôn dân chiêm ngưỡng, hương hoả mãi mãi, làm cho quốc gia được
hưng thịnh, nhân dân khoẻ là như công đức của thần. Vậy làm bia để lưu
truyền cùng giang sơn mãi mãi”.
Đền
Hương Nghĩa hiện nay toạ lạc trên địa thế đẹp, ở trung tâm khu phố cổ
Hà Nội. Quy hoạch mặt bằng của di tích bao gồm: cổng, sân hẹp, đền chính
kết cấu hình chữ “Đinh”. Cổng đình xây gạch đơn giản, kiểu hai tầng tám
mái. Ở chính giữa đắp 3 chữ Hán “Hương Nghĩa từ” (Đền Hương Nghĩa).
Cổng nằm sát mặt phố Đào Duy Từ, trông ra ngã năm. Qua cổng là lối nhỏ
dẫn vào sân đền lát gạch chỉ. Đền chính hình chữ “Đinh” gồm tiền tế và
hậu cung.
Tiền
tế gồm 3 gian 2 dĩ, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta.
Bỗ vì đỡ mái gồm 6 bộ vì bằng gỗ được kết cấu theo kiểu chồng rường con
nhị. Trên thân các con rường, trụ trốn đều được chạm khắc hoa lá cách
điệu nổi, ôm sát vào vì nóc, các thân cách chắc khoẻ nhưng mềm mại. Gian
giữa của tiền tế được mở các cửa bức bàn gỗ, phía trên của cửa bức bàn
được chạm thủng hình hoa cúc mãn khai, đầu cánh hoa được chạm sắc nhọn
như đao mác.
Hậu
cung là một nếp nhà dọc ba gian nối với gian giữa tiền tế qua hệ thống
máng che phần mái. Nhà xây gạch, bộ khung đỡ mái có ba vì gỗ làm kiểu vì
kèo quá giang, để trơn không trang trí. Hiện nay, trong đền Hương Nghĩa
còn lưu giữ được một số di vật có giá trị bao gồm:
Một cuốn thần phả (bằng chữ Hán cổ) ghi công tích của thần Cao Tứ.
Hai đạo sắc phong cho thần Cao Tứ: một sắc có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) và một sắc có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1801).
Bốn
tấm bia thời Nguyễn, tấm bia bằng đá “Hậu thần bi ký” tạo tác ngày tốt
năm Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại tứ 7 (1932). “Bia Hương Nghĩa đình công
đức bi” được tạo tác tháng 10 năm Quý Mùi (1943).
Hai
pho tượng cổ đặt trong khám thờ gỗ: tượng Cao Tứ và Phượng Minh công
chú; bốn ngai thờ gỗ, chín khám thờ gỗ, hai bài vị gỗ: một bài vị của
Cao Tứ, một bài vị của Phượng Minh công chúa; sáu câu đối gỗ có năm bức
hoành phi gỗ nội dung ca ngợi công tích của thần “Thánh cung vạn tuế”(
Đức thánh muôn năm).
Đôi câu đối:
“Duyệt ngã Nam tiền thông giám di biên thuỷ hoá, cổ trung tiêu tiết nghĩa
Kiến La Thành tam danh từ trĩ lập, địa linh thánh tích đối linh hương”.
Dịch là:
“Đọc sử Nam, sách thông giám còn ghi nước lắng cổ trung tiêu tiết nghĩa
Dựng Thành La, ba đền đài vẫn đó, đất thiêng thắng tích đượm hương thơm”.
Đền
Hương Nghĩa với sự tích thần Cao Tứ và Phượng Minh công chúa là nguồn
sử liệu dân gian giá trị. Nó là bằng chứng của người Thăng Long - Hà Nội
xưa hướng về cội nguồn với tín ngưỡng thờ các vị anh hùng của thời kỳ
đầu dựng nước và giữ nước. Nó làm cho khu phố cổ có hồn hơn, nâng cao
hơn bề dày lịch sử của khu phố cổ Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét