Thời
Lê, Yên Thành là một trong số tám làng có tên gọi bắt đầu bằng chữ
“Yên”, thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận. Tám làng đó ở vị trí giữa
phía nam là tường thành Hà Nội (nay là phố Phan Đình Phùng); phía bắc
là hồ Trúc Bạch và hồ Mã Cảnh (Cổ Ngựa); phía đông giáp phường Hòe Nhai
và phía tây giáp với phường Thụy Chương.
Yên
Thành là vùng đất cổ có bề dày lịch sử. Đền Yên Thành được người dân
trong vùng xây dựng làm nơi phụng thờ Vua Bà Lý Chiêu Hoàng – vị vua thứ
chín cũng là đời vua cuối cùng của nhà Lý.
Đền
nằm trên phố Phan Huy Ích, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà
Nội. Được khởi dựng vào cuối thời Lê. Ngày 31.12.2002, Đền Yên Thành
được xếp hạng Di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật.
Điểm
nổi bật của các ngôi đền là nghệ thuật trang trí trên các bức chạm nổi
hình rồng. Kẻ, xà ngang, đấu kẻ chạm hình lá đề, vân xoắn, diềm mái phía
trước tiền tế có hình hổ phù, hoa lá, chữ triện. Trải qua nhiều biến
động của thời gian, đến nay đền vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật có giá
trị. Đó là những tượng thờ, hương án, sập thờ, cửa võng, kiệu rước mang
phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 được nghệ nhân tạo tác rất tỉ mỉ, công
phu, thếp vàng lộng lẫy và đều có chạm rồng phượng. Hệ thống tượng tròn
gồm 21 pho, trong đó có 9 tượng vua triều lý, và các tượng thánh, tượng
chầu. Đặc biệt pho tượng Lý Chiêu Hoàng được thể hiện bằng trình độ nghệ
thuật cao. Ngoài ra, đền cón có các tư liệu thành văn như thần tích,
sắc phong, bia đá là nguồn sử liệu quý giá góp phần tìm hiểu về lịch sử,
văn hóa Thăng Long.
Đại
Việt sử ký toàn thư ghi: “Vì vua Huệ Tông không có con trai nên mùa
đông tháng Mười xuống chiếu lập Công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử
để truyền ngôi cho. Chiêu Thánh lên ngôi đổi niên hiệu là Thiên Chương
Hữu Đạo. Năm thứ nhất tôn hiệu là Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng húy là Phật
Kim, sau đổi là Thiên Hinh con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, mẹ là Trần
Thị”. Theo cuốn “Lý Thái Hậu thực lục” bản thần tích chữ hán và một số
tài liệu khác: Chiêu Hoàng vốn là nữ chúa của triều Lý. Tháng 10 năm
1224, Bà lên ngôi Hoàng đế, lúc mới tám tuổi. Tháng 12 năm Ất Dậu, do sự
xếp đặt của Trần Thủ Độ, Vua Bà Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, cũng mới
tám tuổi và nhường ngôi cho chồng. Sống với vua Trần nhiều năm mà đường
con cái muộn mằn, Chiêu Hoàng luôn có nỗi buồn mênh mông, cảm thấy như
có điều gì đã định sẵn tự trời xanh. Bà thường than: “Rừng vàng biển bạc
coi nhẹ như không, người con hiếu thảo với Tổ tông phải biết nối dòng
giữ nước, việc ấy còn quý hơn cả biển bạc núi vàng”. Bà dâng biểu tông
và được nhà vua ưng thuận. Từ đó, Bà rời cung cấm đi ngao du, thăm phong
cảnh và giảng kibnh thuyết pháp ở nhiều nơi.
Năm
1258, Bà được gả cho tướng có công đầu trong cuộc chiến dẹp giặc Nguyên
xâm lược là Lê Phụ Trần. Họ sống với nhau thuận hòa. Chiêu Thánh sinh
được hai người con, một trai, một gái. Bà qua đời năm 61 tuổi. Tương
truyền, lúc mất mái tóc vẫn đen, môi vẫn đỏ một màu hoa đào. Hoàng Hậu
Chiêu Thánh còn nổi tiếng là người nhân hậu, có lòng từ bi quảng đại.
“Vạn cổ tinh quang hồ thượng miếu
Thiên thu thắng tích nữ Trưng Vương”
Thiên thu thắng tích nữ Trưng Vương”
(Muôn thuở rạng rỡ linh thiêng tòa miếu bên bờ hồ. Nghìn năm di tích nổi danh (ngài) là vị vua trong giới nữ).
Vượt
muôn trùng dâu bể, đôi câu đối quý còn lưu giữ trong đền Yên Thành sẽ
mãi mãi như một lời nhắn gửi tới du khách muôn phương và gợi nhiều suy
ngẫm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét