Chùa Nành Chùa Làng Nành hay gọi tắt là chùa Nành (Pháp Vân cổ tự) nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội
khoảng 18km về phía Bắc Tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Theo
truyền thuyết, đây là một trong bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp vào loại lớn
nhất ở miền bắc nước ta.
Làng
Nành tên chữ là Phù Ninh thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội. Trước cách mạng tháng Tám, làng thuộc Tổng Hạ Dương, huyện Đông
Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Tổng Hạ Dương còn được gọi là Tổng
Nành. Chùa làng Nành là một ngôi chùa lớn, cũng được xem là chùa của
tổng Nành. Chùa lớn nên người dân địa phương còn gọi là chùa Cả và ghi
tên trong Phả kí của chùa là Đại Thiền, còn bia cổ, chuông đồng và khánh
đồng đều ghi tên chữ là Pháp Vân tự.
Chùa
mang tên là chùa Pháp Vân, tuy không thấy đề cập trong sách Cổ Châu
Phật Bản Hạnh lưu ở chùa Dâu (Bắc Ninh), cũng không có các chùa Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện ở trong vùng để tạo thành hệ thống chùa Tứ Pháp và
tượng Pháp Vân ở đây được người dân địa phương gọi là Bà Nành... nhưng
nội dung của bản Phả Kí chùa Đại Thiền thật ra là một dị bản để câu
chuyện phù hợp với vùng đất phía Bắc sông Đuống và vạch ra cả hướng phát
triển theo chiều sâu của di tích, để trên cơ sở đó hiểu về chùa Nành
hôm nay.
Vùng
đất phía Bắc sông Đuống được xác định là bậc thềm cao của châu thổ sông
Hồng, song về mùa mưa và nhất là xa xưa không có đê, thì nước bạc vẫn
mênh mông các cánh đồng, những nơi con người tụ cư được phải là gò cao.
Gò cao gắn liền với một tên riêng nữa mang đặc điểm địa phương thì trở
thành tên làng xã. Gò cao được lập làng, về mùa mưa như những ốc đảo nổi
lên giữa đồng nước, chưa rõ người Việt cổ gọi là gì nhưng từ khi tiếp
xúc với văn hoá Hán thì âm Hán - Việt gọi là Phù. Cái tên Nôm gắn với gò
một mặt được Hán hoá đồng thời với Phù, một mặt được "hiện đại hoá" để
tồn tại trong ngôn ngữ dân gian, cả hai cùng song song tồn tại đến ngày
nay: Phù Ninh/Nành, Phù Lưu/Giầu, Phù Chẩn/Cháy, Phù Đổng/ Gióng, Phù
Cầm/Gầm. Đấy là những ngôi làng cổ và nay vẫn là những làng lớn, bề dày
lịch sử luôn tạo ra những bề sâu văn hoá mà bộ mặt của nó vẫn là các
công trình kiến trúc chùa - đền.
Theo
bản Phả Kí chùa Đại Thiền (chức chùa làng Nành hay chùa Nành) thì thời
Tiền Lê đã rước tượng Pháp Vân từ chùa Dâu về thành Đại La để làm lễ cầu
đảo. Sau khi trời đã cho mưa thuận bèn rước trả lại chùa Dâu, nhưng đến
chùa Dâu thì không thấy tượng đá Thạch Quang đâu nữa. Bỗng trong chùa
làng Nành có ánh sáng lạ, thì ra trên chạc cây mận ở vườn chùa có pho
tượng đá. Dân làng dựng ngôi đền và rước tượng vào thờ, còn cây mận ở
vườn chùa được hạ xuống tạc thành tượng Pháp Vân, từ đó những cuộc cầu
đảo ở chùa này rất linh ứng. Huyền thoại này đã cho ta thấy bước chuyển
tiếp: bà Nành được đồng hoá với bà Dâu để trở thành Pháp Vân, chùa Nành
nằm trong tổ chức tứ Pháp nhưng không có các chùa Pháp Vũ, Pháp Lôi,
Pháp Điện.
Như
vậy chùa Làng Nành có nguồn gốc từ rất lâu đời và có thể nói là một
trong những trung tâm của Phật giáo Cổ Pháp. Tuy nhiên, chùa Nành chỉ để
lại nhiều dấu tích từ thời nhà Mạc. Nhưng về mặt kiến trúc,có thể thấy
chùa Nành được xây dựng lại hoàn toàn dưới triều Nguyễn. Trong không
gian nội thất còn giữ lại được nhiều hiện vật có niên đại tuyệt đối và
tương đối thuộc các thế kỉ XVI - XVII và nhất là XVIII. Những bằng chứng
vật chất ấy khẳng định chùa Nành - Pháp Vân tự hoàn toàn xứng đáng với
các tên Đại Thiền, chùa Cả, chùa Trăm Gian, chùa (hàng) Tổng.
Chùa
Nành ngày nay ở giữa làng, hướng Tây Bắc, đường làng chạy ngang qua cửa
chùa có chợ to, đông vui, nay là một ngôi chợ nổi tiếng ở ngoại thành
Hà Nội, biểu hiện sự năng động đặc biệt của người dân làng Nành. Phía
bên phải của chùa hướng về phía trước vốn là khu dinh Thiết Lâm của bà
Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền (vợ vua Lê Cảnh Hưng, mẹ công chúa Ngọc Hân)
từng được phụ thờ ba mẹ con Ngọc Hân. Mảnh đất này được coi là nơi của
tụ nhân và là đất thiêng nảy sinh nhân tài. Phía trước chùa, ngay sát
đường làng còn được đào ao vuông kè bờ chắc chắn là nơi tụ thuỷ, phía
gần bờ bên ngoài được xây một toà phương đình chồng diêm tám mái làm nơi
tổ chức múa rối nước trong các dịp hội chùa. Toà nhà vuông này với tám
đầu đao cong vênh hất lên như bông hoa sen nổi trên mặt nước, hình thực
quyện với hình ảo lung linh trong nước khiến cảnh vật trở nên sống động.
Với
sự kết hợp đền Thần với chùa Phật, nơi đây nhân vật trung tâm là bà
Nành đã hoá Phật hoá thành Pháp Vân, khuôn viên chùa Nành không mở đầu
bằng tam quan mà bằng toà ngũ môn mang tư cách giống như một nghi môn đề
ở các đền của miền Bắc. Toà ngũ môn chùa Nành được xây khoảng đầu thế
kỉ XX, là một khối vuông bề thế, dàn ra, lại vươn cao ở tầng lầu phía
trên, khẳng định một diện mạo của một làng quê văn hiến toả sáng và thu
hút cả vùng.
Sau
ngũ môn là một sân rộng thông thoáng như một mặt phẳng thấp trải ra, để
tôn lên những dãy nhà của khu Tam Bảo chen chúc vươn lên trên tầm cao
vừa phải. Hai bên ngũ môn là hai dãy nhà 5 gian, dãy bên trái dành cho
các quan chức, dãy bên phải dành cho tuần đinh. Hai bên của toà tiền
đường cũng có hai dãy nhà ba gian, dãy bên trái dành cho thủ cờ, dãy bên
phải dành cho thủ vật. Hai bên sân còn hai dãy hành lang dài bảy gian,
đều để dựng bia trong đó có một tấm bia được dựng từ thế kỉ XVI nói về
các quận công, đại thần, công chúa nhà Mạc mở mang cảnh chùa và làm ba
pho tượng tam thế, chín tấm bia hậu Phật dựng vào thế kỉ VIII. Những dãy
nhà này đều là nhà phụ, cấu trúc đơn giản, lòng hẹp, không quan tâm đến
trang trí, song trên mặt bằng của công trình, chúng được bố trí đăng
đối, tạo sự nghiêm túc, trang trọng, tôn kính thần phật.
Phía
sau sân mới thực sự là khu kiến trúc tôn giáo được dàn ra theo kiểu chữ
Công nằm lọt trong chữ Quốc. Các dãy nhà chen chúc nhau, cân đối quy tụ
vào giữa, song tập trung cho công trình ở phía trước, như thế vừa tôn
nghiêm, vừa mỹ quan, mang đậm giá trị văn hoá đối với cả Phật tử và du
khách. Khu chữ quốc gồm toà tiền đường ở phía trước và hậu đường ở phía
sau đều dàn ngang 7 gian, lòng rộng với bốn hàng chân cột. Còn hai bên
là hai dãy hành lang đều 9 gian, nối gian đầu của tiền đường với gian
đầu của hậu đường, tạo một không gian nội thất khép kín. Chính trong
lòng của khu chữ quốc này là khu Tam bảo với kiến trúc chữ công gồm hai
dãy nhà ba gian được nối với nhau bằng một dãy nhà chạy dọc năm gian.
Dãy nhà ngang phía trước là tiền đường, trong nối liền với tiền đường
ngoài thuộc khu chữ quốc. Toà thiêu hương chạy dọc được ngăn làm ba gian
trong làm điện thờ Bà Nành/ Pháp Vân nhưng không tách biệt mà liền
không gian với thượng điện theo nguyên tắc bố cục tiền Thần hậu Phật như
thường gặp trong các chùa thuộc hệ thống Tứ Pháp. Giữa hai khu nhà chữ
Quốc và chữ Công có một khoảng sân hẹp bao lấy hai bên và phía sau khu
Tam bảo, tạo cho hai dãy hành lang và hậu đường luôn thông thoáng, tiếp
nhận được nhiều ánh sáng tự nhiên và gió trời, làm cho toàn bộ khu chùa
được xây dựng lại ở trạng thái đóng ngang, khép kín nhưng mở dọc thường
gặp ở các chùa kiểu nội công ngoại quốc. Nó mở rộng quy mô theo kiểu
trăm gian mà không chống chếnh, tất cả cứ gắn bó, xoắn xít với nhau.
Trong khoảng sân nhỏ ấy vẫn dành dải đất hẹp hai bên toà thiêu hương để
trồng cây cảnh, bảo đảm cho thiên nhiên tươi mát len lỏi vào trong lòng
kiến trúc.
Các
toà nhà của chùa Nành đều đã qua nhiều lần sửa chữa, làm lại. Kiểu kiến
trúc hiện còn là thuộc cuối thế kỉ XIX đầu XX, cấu trúc đơn giản. Nổi
trội hơn cả là toà tiền đường ngoài bảy gian dài rộng bề thế, trong đó
có các gian hồi nổi lên hai lầu chuông và khánh theo kiểu chồng diêm
đăng đối cùng nhìn xuống sân trước chùa, tạo nên một diện mạo riêng chỉ
có ở chùa Nành. Có thể xem đây là sự phát triển từ lầu chuông và lầu
trống nên hai nhà tả vu và hữu vu ở hai bên sân sau chùa Thầy (Hà Tây),
nó nổi lên như hai đoá hoa xinh xắn. Nếu ở hai di tích trên, những nhà
nhỏ đều nhô lên ở những nhà phụ ở hai bên sân thì tại chùa Nành nó
chuyển sang toà nhà chính ngoài cùng nên trang trọng và nổi bật. Từ
những lầu nhỏ này, tiếng chuông và tiếng khánh khi thỉnh lễ sẽ vang vọng
như sự giải thoát cho các Phật tử đang cầu nguyện.
Toà
tiền đường có bốn hàng cột, nối các cột cái ngoài là hệ thống cửa, do
đó hàng hiên khá rộng làm không gian đệm giữa ngoại thất và nội thất,
bảo đảm cho nội thất tránh được sự khắc nghiệt của thời tiết và các Phật
tử có sự lắng tâm chuyển từ thế giới trần tục sang thế giới tâm linh
với sự chở che của thần, phật. Ở toà nhà, cấu trúc các vì chia gian đơn
giản đến bất ngờ mà chắc chắn. Chiếc câu đầu chui đầu vào hai cột cái để
níu chúng lại, còn cột cái gắn với cột quân có chiếc bẩy cũng được xem
như phần đầu của chiếc kẻ ngồi để đỡ mái hiên. Sau đó, trên hệ thống câu
đầu - kẻ - bẩy là những tấm ván rong để đỡ các hoành, như vậy cả hai
mái co 23 hoành, lấy đầu cột làm điểm ngắt thì được chia ra theo tỉ số 2
- 5 - 8 - 5 - 2, có nghĩa là giãn cách giữa các khoảng lòng nhà là 8/5 -
1,6 được xem là bằng tỉ lệ vàng nên nhìn rất thuận mắt. Lối cấu trúc
này vừa tiết kiệm gỗ, lại nhẹ, thoáng, không đòi hỏi nhiều ở nghệ thuật
chạm khắc, trang trí.
Bên
phải của khu thờ chính còn một khu phụ nữa với dãy nhà làm điện thờ
Mẫu, nhà Tổ và tăng phòng nhìn sang khu chùa Phật, hướng Tây - nam lệch
về phía Nam, toàn thể khang trang, thoáng mát, giản đơn.
Kiến
trúc hiện tại có muộn song hẳn trước khi được làm lại, chùa Nành có một
quy mô rất lớn. Các tài liệu, thư tịch còn khắc trên bia đá, chuông và
khánh đồng cũng như hệ thống tượng pháp đều khẳng định giai đoạn huy
hoàng kéo dài suốt các thế kỉ XVI - XVII - XVIII sang đầu thế kỉ XIX.
Với
cả loại bia đá và trống đồng này, hẳn trong suốt thế kỉ XVIII, chùa
Nành đã được tôn tạo liên tục, phải có quy mô rất lớn. Nhưng vào đầu
thời Thiệu Trị, khi việc làng Nành có mộ mẹ con Bắc cung Hoàng Hậu Lê
Ngọc Hân và còn được thờ trong Thiết Lâm bị tố giác, triều đình Huế sai
quật mồ và triệt phá dinh Thiết Lâm. Có thể lúc này chùa Nành bị vạ lây
nên không có dấu tích gì về kiến trúc. Rất may là dân làng còn giữ lại
được nhiều tượng, chuông, khánh, bia đá và trống ghi rõ niên hiệu Tây
Sơn.
Chùa
Nành hiện có tới 89 pho tượng, gồm đủ loại với các bộ tam thế, Di Đà
Tam Tôn, Phật Thế Tôn và Tứ Thiên Vương, Tứ Trấn, Bát Bộ Kim Cương, Hộ
Pháp, Thập điện Diêm Vương, Ngọc hoàng, Quán Âm Nam Hải, Quan Âm Thị
Kính... và đặc biệt là tượng Bà Nành/ Pháp Vân. Một ít tượng bằng đồng
(A Di Đà, Phật Thế Tôn, Ngọc hoàng), còn lại là các tượng gỗ. Phần lớn
các tượng này có niên đại vào thế kỉ XVII - XVIII. Một số tượng như Bát
Bộ Kim cương, Trứ Trấn, Hộ Pháp... mang phong cách gần gũi với tượng
chùa Tây Phương. Có thể nói chùa Nành ;à một bảo tàng điêu khắc quý giá
với niên đại trải dài từ thế kỉ XVI - XVII - XVIII.
Hiện
nơi đây vẫn bảo lưu được nhiều nghi thức của lễ hội dân gian truyền
thống gắn với tục thờ Pháp Vân. Đó là Hội Đại hay còn gọi là hội nâng
phan. Tục nâng phan là một nghi lễ chỉ có ở đất làng Nành. Cây phan
tượng trưng cho khóm lúa, bó lúa được nâng lên khỏi miệng hố. Đây có lẽ
là ước vọng của cư dân nông nghiệp cầu mong cho sự phồn thực, no đủ...
Chùa
Pháp Vân thực sự là một di sản văn hoa quý của thủ đô Hà Nội và cả
nước. Ngôi chùa không chỉ là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn là
nơi tụ hội nhiều công trình khoa học của các nhà nghiên cứu trong nước
và quốc tế.
Chùa Nành (Pháp Vân cổ tự) đã được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá năm 1989.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét