Hà
Nội giờ đây là những tòa nhà ngửa cổ nhìn mỏi mắt, đường xá nêm chặt xe
cộ, bất cứ thừa đất nào dù rộng hay hẹp, nhiều hay ít là những chung
cư, biệt thự mọc lên với những bức tường trơ cứng và lạnh lẽo.
Vậy
mà, trong guồng quay tất bật ấy, đâu đó ta vẫn gặp những cổng làng cổ,
nhỏ nhoi thôi nhưng vô cùng mềm mại làm chùng xuống một không gian toàn
bê tông thô cứng, vô hàng vô lối xung quanh. Không đâu xa, ngay bên
đường Láng Hạ khá nổi tiếng sầm uất và hiện đại là cổng làng Thành Công
hay dọc đường Thụy Khuê có tới 4 – 5 cổng làng thuộc vùng Bưởi xưa. Còn
len lỏi vào các ngõ phố vùng ven Hà Nội cũ thì cổng làng vẫn còn lưu lại
nhiều vô kể.
Xưa kia, trung
tâm Hà Nội chỉ gói gọn ở khu phố cổ, phố cũ; các khu vực còn lại gọi là
vùng ven Hà Nội. Những nơi này sinh hoạt theo kiểu cộng đồng làng xã,
lấy nghề tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp làm chủ yếu và những cổng
làng ra đời từ đời sống lao động và tinh thần của cư dân vùng đó. Do
vậy, cổng làng chiếm vị trí quan trọng trong tâm thức người dân, cùng
gắn kết với những công trình cộng đồng như cây đa, giếng nước, sân đình,
đền chùa miếu mạo tạo nên hình ảnh thân thương của một làng quê. Người
ta cho rằng, cổng làng cũng là gia sản văn hóa cộng đồng, là biểu tượng
của làng xã. Bây giờ, vô số làng Hà Nội đã chuyển thành phố, tên làng
cũng thay đổi cho phù hợp nhưng người ta vẫn quen gọi làng này – làng
kia, cổng làng này – cổng làng kia cho dễ phân biệt.
Tôi
đã gặp nhiều cổng làng Hà Nội, không cổng nào giống cổng nào, từ hình
dáng đến kích thước, dù Hà Nội vẫn còn hàng trăm cổng làng. Có nghĩa,
không có một khuôn mẫu nào cho cổng làng Hà Nội. Mỗi cổng được xây theo
một khuôn mẫu riêng, tùy theo thẩm mỹ, quan niệm của cư dân mỗi làng;
rất phóng khoáng, tự nhiên và đó cũng là tinh thần, tư tưởng của người
Việt.
Cổng
làng Trung Nha, thuộc phường Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy) là một cổng làng
hiếm hoi ở Hà Nội còn giữ nguyên vẹn dấu ấn của cổng làng xưa. Một cái
cổng bề thế tựa như tam quan của chùa, có nóc mái và một cây đa cổ thụ
mọc ngay cạnh cổng, tán lá bao phủ cả một vùng. Nhìn cổng làng Trung Nha
gơn lên hình ảnh làng quê êm đềm, gần gũi đến lạ lùng, hơn là một con
đường nườm nượp xe cộ qua lại ngay bên cạnh và một khu dân cư chen chúc
những nhà là nhà. Thế nên, người dân quanh đó kể rằng, không biết bao
nhiêu đoàn quay phim đã đến dàn dựng cảnh quay, tận dụng một nét làng ở
trong phố cho những thước phim của mình.
Khu
vực phường Bưởi (quận Tây Hồ), một vùng đất còn mang đậm dấu ấn của văn
hóa Thăng Long, còn giữ lại không ít các cổng làng cổ, nào là cổng làng
Yên Thái, cổng Xanh, cổng Giếng, cổng Hầu, cổng Đông. Mỗi cổng có một
dáng vẻ khác nhau nhưng đều dẫn vào một con ngõ nhỏ, chạy tít tắp vào
trong. Cổng làng Yên Thái, nơi nổi tiếng đất Kinh Kỳ với tiếng chày giã
dó xưa kia còn ghi dòng chữ “Mỹ tục khả phong”, có nghĩa phong tục tốt
đẹp. Còn cổng Đông chính là một tam quan chùa, sau sự biến chuyển của
thời gian cũng được sử dụng làm cổng đi cho người dân. Bà Hồ Thúy Lan,
cán bộ văn hóa UBND phường Bưởi, vô cùng tự hào về vùng đất nơi bà đã
sinh ra và lớn lên: “Vùng Bưởi còn nhiều cổng làng đẹp lắm, hiếm có nơi
nào ở Hà Nội này còn lưu giữ được như thế”.
Hà
Nội ngày nay đã thay đổi nhiều, nhưng may mắn rằng với những cổng làng
không bị đổ vỡ do thiên tai, chiến tranh hoặc mất đi do một lý do nào
đó, đều được dân làng gìn giữ với niềm tự hào, trân trọng. Và không như
cổng làng ở các vùng quê khác, cổng làng Hà Nội có một sức sống đặc
biệt, là sự trường tồn trong sự giành giật của quá trình đô thị hóa. Mới
– cũ đan xen trong cuộc sống hiện đại, quả là một điều thi vị và đáng
quý. Cũng chính vì thế, có người đã đề xuất ý tưởng xây dựng các cổng
làng Việt cổ tại các cửa ngõ Thủ đô hiện nay, tạo ra biểu trưng văn hóa –
kiến trúc mới ở Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét