Không
chỉ xuất hiện trong đời sống thôn quê Bắc Bộ với vẻ đẹp chân quê, mộc
mạc mà trong trang phục Thăng Long xưa, chiếc yếm đào đã góp phần làm
nên cái cốt cách trang nhã, tinh tế và thanh lịch của các thiếu nữ: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".
Giữa
đất kẻ chợ xênh xang "yếm thắm, lụa hồng" xa xưa ấy, từ muôn ngả, những
con người ngoại thành quanh năm cần mẫn với công việc "trồng dâu nuôi
tằm" đem những sản phẩm tuyệt hảo của tơ tằm tập trung về đây quyến rũ,
mời chào những người phụ nữ, con gái Thăng Long, đặc biệt là trước mỗi
mùa lễ hội. Họ rủ nhau tấp nập ra chợ chọn lựa tơ tằm, ướm thử mọi thứ
lụa là gấm vóc để may yếm đào, váy áo tứ thân, áo cánh, thắt lưng, khăn
vấn và cả đồ trang sức vàng bạc...
Những
cô gái kỹ tính thường tự đi chợ mua tơ tằm về may yếm. Công việc này
đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mỉ. Ngay trong lòng khu phố cổ Hà Nội hiện
nay, tại số nhà 38 Hàng Ðào vẫn còn tấm biển khắc chữ Hán "Ðồng Lạc
quyến yếm thị". Ðây chính là ngôi đình của chợ bán yếm lụa ngày xưa,
mang tên Ðồng Lạc. Ðiều này chứng tỏ Thăng Long - Kẻ Chợ đã từng có cả
một cái chợ dành cho phường bán yếm xưa và cả phường nghề dệt nhuộm
truyền thống chỉ riêng phục vụ cho nhu cầu ăn mặc, làm đẹp của người phụ
nữ.
Yếm
đào dành cho tầng lớp thị dân Thăng Long đẹp đến mức, đầu thế kỷ 20,
khi hai họa sĩ "Tây học" Lê Phổ và Cát Tường phát minh áo dài tân thời,
thì vẻ đẹp tân kỳ, pha trộn hài hòa Ðông - Tây của nó vẫn cứ phảng phất,
lưu giữ lại một phần vẻ đẹp của chiếc yếm thắm thuở nào.
Hình
ảnh thiếu nữ Hà Nội xưa đã uyển chuyển đi vào thi ca, hội họa, mà đặc
trưng nhất là những bức tranh "Tố nữ" của các nghệ nhân tranh dân gian
Hàng Trống với hình ảnh các thiếu nữ mang vẻ đẹp thanh thoát, kín đáo
phô ra đường nét rất đài các, tinh tế nơi phồn hoa đô thị. Có ý kiến
từng nhận định rằng, ngay trong những bộ quần áo cần lao giản dị, người
Tràng An vẫn đượm vẻ phong lưu, bởi lẽ vẻ đẹp thanh lịch của người con
gái đất kinh kỳ được tỏa ra từ phong thái điềm tĩnh, đoan trang, nhàn
hạ. Thế nên, hình ảnh chiếc yếm đào vừa trực tiếp, vừa gián tiếp thể
hiện thành công đề tài tình yêu trong ca dao Việt Nam.
Dải yếm đã "đặc tả" tương đối đầy đủ, trọn vẹn, sâu sắc những cung bậc
phức tạp của tình yêu - nguồn cảm hứng muôn đời của thi ca nhân loại: Trời mưa trời gió kìn kìn/ Ðắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.
"Biến tấu" qua các thời kỳ lịch sử
Nhìn
lại quá trình lịch sử, chiếc yếm đào trong trang phục của người Thăng
Long xưa cũng đã có nhiều sự thay đổi. Ngay từ thời Lý, chiếc yếm đã
được định hình. Ðến khoảng năm 1696, đàn bà lao động thì mặc yếm cổ xây
(là miếng vải vuông đặt chéo trên ngực người mặc, ở góc trên có khoét
hình tròn làm cổ yếm) còn phụ nữ quý tộc thì trước yếm có thêm một vài
đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám. Mỗi thời kỳ chiếc
yếm đều có sự biến đổi khác nhau phù hợp với quan niệm thẩm mỹ thời đó.
Nhìn chung, thời kỳ "tiền Thăng Long", chiếc yếm đào còn nằm trong tổng
quát trang phục của người dân Văn Lang - Âu Lạc. Phụ nữ mặc yếm tròn sát
cổ, có trang trí bằng những họa tiết hình hạt gạo. Mầu sắc của những
chiếc yếm thời kỳ này còn giản đơn, chủ yếu được nhuộm bằng những loại
mầu có nguồn gốc tự nhiên, bên ngoài mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực bó
sát vào người.
Ðến
thời kỳ độc lập tự chủ (kỷ nguyên Ðại Việt), do điều kiện ổn định cả về
chính trị, xã hội và đặc biệt là về kinh tế, Thăng Long đã trở thành
kinh đô và là một trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Việc bang
giao với bên ngoài làm cho thị trường vải vóc ngày càng phong phú. Xã
hội cũng đã có sự phân biệt đẳng cấp, trên có vua, quan, dưới có sĩ -
nông - công - thương. Yếm đào của người phụ nữ Hà Nội thời kỳ này cũng
theo đó mà phân ra "đẳng cấp" qua sự khác biệt của chất liệu, mầu sắc,
họa tiết... Phường Hàng Ðào chuyên làm nghề nhuộm điều. Mầu vàng vẫn bị
cấm, chỉ dành riêng cho nhà vua và áo khoác các tượng Thần, Phật. Con
gái quan lại mới được mặc yếm đỏ gọi là mầu đại hồng. Những ca kỹ thường
mặc yếm mầu hoa đào và hễ ai khoác lên người thứ mầu sắc này lập tức bị
coi là lẳng lơ, không đứng đắn.
Sau
này, những phụ nữ Hà thành còn tinh ý đến mức, khi mặc kiểu áo năm
khuy, tay rộng bên ngoài thì các cô chỉ cài bốn chiếc, để hở khuy cổ,
khoe cái yếm cổ xây, ôm lấy cái cổ cao ba ngấn nõn nà mà vẫn giữ gìn
được nét đoan trang, kín đáo khuôn phép. Cuộc cách mạng áo yếm xảy ra
vào thế kỷ 20 khi các kiểu áo Tây phương xâm nhập vào Việt Nam
với sự ra đời của rất nhiều kiểu yếm mới lạ. Mầu sắc áo yếm nói lên khá
nhiều về người chủ của nó: Phụ nữ ngoại thành mặc yếm mầu nâu bằng vải
thô, con gái nhà gia giáo thì mặc yếm lụa màu trang nhã, hội hè mặc yếm
đào, yếm hoa hiên, người lớn tuổi mặc yếm mầu thẫm. Ngoài trang phục ra
thì trong cách ăn mặc của người Hà Nội còn có nhiều thứ phụ trang đi kèm
như giày dép, trang sức bằng vàng, bạc như vòng tay, nhẫn, dây chuyền,
khuyên tai... để làm tăng vẻ đẹp ngoại hình. Kiểu yếm mầu sặc sỡ, cổ
khoét sâu thì ít người dùng, chỉ những cô nàng "mắt liếc, mày nheo" kiểu
như... thị Mầu mới dám chưng diện.
Thay lời kết
Lấy cảm hứng từ "giai nhân" đất Hà thành xưa, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp từng gieo những vần thơ trong trẻo: "Em đeo dải yếm đào/ Quần lĩnh áo the mới/ Tay cầm nón quai thao". Hay thi sĩ Hoàng Cầm đã đắm say mà viết nên khúc "Hội yếm bay": Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội/ Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi...
Sau một thời gian dài bị lãng quên, ngày nay, một số cô gái khi đã
"ngán" những "mốt" Tây phương thì lại có xu hướng quay về với... yếm.
Nhưng lại là mặc yếm thay cho áo và kết hợp với chiếc quần jean hoặc váy
một cách "trơn tru". Dẫu không cổ hủ thì cũng khó lòng mà chấp nhận
được, bởi yếm là "phụ trang", phần trước được thiết kế kín đáo còn phần
lưng và đôi cánh tay hoàn toàn là "khoảng trống". Nét duyên thầm do
chiếc yếm đào mang lại là ở nét mềm mại kín đáo, tế nhị chứ không phải
cứ phô trương một cách "vô tội vạ".
Dẫu
có sự xuất hiện trở lại thì hình tượng về dải yếm đào xưa và nay vẫn có
một khoảng cách lớn. Ðôi khi, trong một lễ hội dân gian nào đó, bất
chợt bắt gặp hình ảnh những cô áo yếm eo thon với áo tứ thân, nón quai
thao ngọt ngào trong câu hát cổ... mà thấy lòng bâng khuâng, luyến tiếc:
Kiếp sau đừng hóa ra người/ Hóa đôi dải yếm buộc lời tình nhân...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét